Ðề: Chán việc
- Bạn là con gái nên nghỉ vậy chứ là đàn ông ai mà chẳng có tham vọng bá nghiệp, nếu ko có thì đó ko phải là đàn ông dĩ nhiên đó là...
- Chỉ những kẻ thất bại quá đát không thể gây dựng được cơ đồ sự nghiệp tuổi già đã đến thần chết sắp hỏi thăm thì mới an phận thủ thường nằm ngủ dưới cái mai rùa
- Hoặc những người đầu óc giản đơn nhu cầu dản dị, hay những thầy tu …..thì mới ko cần đến những thứ mà kẻ phàm tục đang cần và sống chết theo đuổi mà thôi
Quyền mưu thiên hạ do QUỶ CỐC TỬ chế tác có 72 đấu pháp tâm thuật thiên biến vạn hóa
72 ke cua Quy Coc Tu
Gồm có 72 phép :
Trong tĩnh có động ,trong động có tĩnh . “Biến sinh ra sự ; Sự sinh mưu ; Mưu sinh kế ; Kế sinh nghị ; Nghị sinh thuyết ; Thuyết sinh tiến ; Tiến sinh thoái ; Thoái sinh chế (chế ngự sự việc).
Quỷ cốc tử cho rằng : Trên đời vốn không có việc gì khó ,mọi việc toàn là do con người đặt ra ,bố trí mà thôi .Chỉ cần không ngừng nghiên cứu thực tiễn ,thì có thể đạt được mục đích của mình .
-Phép thứ 1 ương mưu –Âm mưu
“Mưu kế trí lược ,mỗi cái đều có hình dạng của nó : hoặc vuông hoặc tròn ,hoặc âm hợặc dương”.
Mưu kế có âm mưu và dương mưu,trong bất kỳ tình huống nào ,người ta đều không được coi thường đối phương .Bởi vì sự việc ,có những việc giả dối mà đối phương cố ý tạo ra .Tình báo cũng có tình báo giả .Chnên thánh nhân phải làm cho đối phương không thể dò biết thực hư ,Như nhà buôn phải dấu kín như không có chuyện gì .
Âm mưu ở đây không phải là thứ thủ đọan của bọn tiểu nhân ,mà là âm mưu của thánh nhân .
Mưu việc ở âm mà thành sự ở dương .Mục đích là làm cho dân giàu nước mạnh.
Cho nên Quỷ cốc tử lại nói : Thánh nhân mưu ở âm nên gọi là Thần ,thành ở dương nên gọị là Minh ,chủ sự thành tức là tích đức vậy.
-Phép thứ 2 :Xoay chuyển Càn khôn
Giữ vững ý chí ,tinh thần thì sẽ có uy lực. Có uy lực ắt bên trong mạnh ,bên trong mạnh thì không ai địch nổi”.
Quỷ cốc tử cho rằng :khi tình thế bất lợi cho ta ,ta phải dùng trăm phương ngàn kế để hàm dưỡng sức mạng tinh thần ,và chỉ khi nào sức mạnh tinh thần của ta hùng hậu thì mới có thể Xoay chuyển càn Khôn.
-Phép thứ 3 :Đánh bại lần lượt:
“Phân tán được uy thế của đối phương thì ta mạnh như thần”.
Muốn phân tán uy lực của đối phương thì ta phải phục sẵn ,chờ cơ hội xuất hiện mà lần lượt đánh bại đối phuơng.
-Phép thứ 4 :Ứng biến thần tình :
“Tiến thoái xoay trở ,xuất quỷ nhập thần khiến người không biết đâu mà lần”.
Khi tác chiến ta phải tùy cơ ứng biến không hề cố định ,xoay chuyển tùy ý muốn ,khiến cho đối phương chẳng biết thực hư.
-Phép thứ 5 :Giành hết thiên cơ:
“Thánh nhân ở giữa trời đất :lập thân ,tạo nghiệp,lên tiếng ,tuyên truyền đều phải quan sát tượng trời để chớp đúng thời cơ”
Một người cao minh ,trước sự biến đổi mau lẹ của sự vật ,sẽ biết nắm lấy thời cơ ,vận hội 1 cách kịp thời mà thực thi ,hoặc điều chỉnh kế họach của mình .
-Phép thứ 6: Họa phúc tùy lời :
“Lời lẽ của Thánh nhân rất huyền diệu,có thể chuyển nguy thành an ,cứu cả mạng sống”.
Thế gian có câu : “Một lời nói ra ,ngựa giỏi chẳng đuổi kịp” .Hàn Phi Tử nói : “Cái tâm của kẻ vô mưu,lời lẽ của kẻ có mưu :đều là nguy”.Ngụ ý rằng người ta phải thận trọng trong lời ăn tiếng nói .
Ngôn ngữ là tiếng lòng ,là biểu hiệu tư tưởng .
Tục ngữ Trung quốc có câu : “Muốn biết việc trong bụng ,hãy nghe lời cửa miệng “. Họa phúc là tùy ở lời nói vậy.
-Phép thứ 7 :Chúng bất địch quả:
Quỷ cốc tử nói : “Xuân sinh ;hạ trưởng ; Thu thu ; Đông tàng .Đạo trời là vậy ,chẳng thể làm trái.” Lại nói : “Làm trái ,dù thịnh ắt suy”.
Trời đất có 4 mùa thay đổi ,nhân sự cũng có quy luật biến hóa của nó ,mỗi người nếu có hành động trái ngược với quy luật phát triển của sự vật ,thì dù thế lực lớn mạnh đến mấy cuối cùng cũng sẽ thất bại .
Một người ,nếu hành động đúng theo quy luật phát triển của sự vật ,thì dù hiện thời còn đơn thương độc mã ,nhưng rồi vẫn có thể lấy ít thắng nhiều.
-Phép thứ 8 : Trăm phương ngàn kế :
“ Vạn sự trên thế gian biến hóa vô cùng ,tình hình lúc thế này khi thế khác .Người đời cũng trăm phương ngàn kế” .Một vị chủ soái ắt hẵn cũng phải nắm vững nhiều lọai mưu kế để ứng phó với tình húong không ngừng thay đổi.
-Phép thứ 9 :Thiên địa vô thường:
“Trời đất luôn thay đổi há có gì trường cửu”.
Một cái lý chung xuyên suốt giữa trời và người .Khi trời luôn đổi ,nhân sự làm sao bất biến .Một người chỉ 1 mực theo đuổi truyền thống mà không chịu đổi mới ,ắt sẽ bị lạc hậu so với thời cuộc.
-Phép thứ 10 :Thay cũ đổi mới :
“Uốn lượn thì toàn vẹn ,cong ắt sẽ qua ,đầy ắt sẽ tràn ,rách nát sẽ đổi mới ,ít rồi đủ ,nhiều ắt giảm”.
Thay cũ đổi mới là quy luật phát triển của vạn vật trong vũ trụ . Song sáng tạo cái mới bao giờ cũng dựa trên cơ sở truyền thống sẵn có .Không kế thừa truyền thống thì đừng nói gì đến sang tạo cái mới .
Phải hiểu thấu đáo truyền thống mới có thể tiếp nhận tinh hoa và gạt bỏ cặn bã ,từ đó mà phát huy thêm tinh hoa của truyền thống.
-Phép thứ 11:Nhìn xa trông rộng :
“Bậc đại trí dùng cái mà mọi người không hay biết ,cũng dùng cái mà mọi người không nhìn thấy”.
Cái mà mọi người không hay biết ,không nhìn thấy thì chỉ có bậc đị trí mới thấy rõ .Như vậy gọi là “biết nhìn xa trông rộng”.
-Phép thứ 12 :Xử lý linh họat
“Lợi hay thiệt ,được hay mất ,nhiều hay ít …đều dùng âm dương chế ngự .dương động mà vận hành ,âm tĩnh mà thu tàng .dương động mà hiện ra ,âm theo mà nhập vào .Dương cực sinh âm ,âm cực sinh dương”.
Vạn vật trong thiên hạ luôn luôn thay đổi .Khí hậu có 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông luôn đổi thay .Đời người có sống chết ,đủ thấy biến đổi là quy luật phát triển của vạn vật .Ta phải linh họat chứ không máy móc xử lý mọi việc mới có thể : “Thắng không kiêu ,bại không nản”.
-Phép thứ 13 :Mưu thâm thích hợp :
“Phàm theo hay bỏ ,thuận hay nghịch phải tùy theo hoàn cảnh .Hợp ở mưu ắt thành ở sự .Bỏ ta theo ngươi hay bỏ người theo ta :ấy là do mưu thuật có tòan vẹn hay không ?
Dùng thiên hạ có mưu kế này ,dùng một nước có mưu kế khác ,dùng 1 phái có mưu kế nọ,dùng 1 người có cách dùng riêng .Lón nhỏ tiến thoái …đều có cách thích hợp .
Xưa nay ,kẻ giỏi xoay trở :theo hay bỏ ,giúp được 4 biển ,chi phối được chư hầu đều trải qua lắm phen chuyển hóa ,theo hay bỏ ,mới tìm ra chổ thích hợp .
Cho nên Y Dõan mấy bận theo vua Thang ,mấy bận theo vua Kiệt ,cuối cùng mới theo vua Thang .
Lã Vọng 3 lần theo Văn vương ,3 lần nhập điện vẫn chưa thật rõ .Cuối cùng mới hợp với Văn Vương”.
-Phép thứ 14 :Hành động bí mật:
“Đạo âm của Thánh hiền ,đạo dương của kẻ ngu ,đạo của Thánh nhân ẩn giấu rất kỹ”.
Tướng soái khôn ngoan thường tạo nên những cái giả để mê hoặc đối phương ,ngấm ngầm hành động để giáng cho đối phương những đòn trí mạng.
-Phép thứ 15 : Đột phá điểm yếu:
“Từ ngoài chế ngự bên trong ,sự việc có điểm cốt lõi phải nhắm vào đó”.
Muốn khống chế nội tâm kẻ khác thì phải nắm chắc: đâu là điểm mấu chốt ,đâu là chồ yếu để mà chĩa mũi nhọn vào đó.
-Phép thứ 16 :Nhỏ mà thấy lớn :
“Quan sát sự việc,luận về vạn sự ,chớ tranh hơn thua .Phải biết nhìn :cái tuy nhỏ nhưng mà nhìn thấy nó lớn lao”.
Người thông minh chỉ căn cứ vào triệu chứng nhỏ bé mà biết nó tiềm ẩn sự kiện trọng đại.
-Phép thứ 17 : Đổi vai chủ - khách:
“Mạnh tích tụ từ yếu ,Có tích tụ từ không .Yếu muốn thắng mạnh ,mềm muốn thắng cứng thì phảỉ tích yếu ,tích mềm”.
So sánh thế giữa chủ và khách để đổi vai chủ khách .
Đó cả là 1 nghệ thuật.
-Phép thứ 18 :Chiêu nạp người hàng
“Cự tuyệt là bịt kín lối vào ,đề phòng quá kỹ thì chẳng ai theo”.
Một vị chủ soái thông minh thì phải có khí phách của 1 chính trị gia vĩ đại ,sẵn sàng chiêu nạp những ai muốn chạy về phía mình .
-Phép thứ 19 :Ứng địch hành động
“Tuy động mà ứng ,việc gì cũng xong”.
Ứng nghĩa là chuyển động sau người ,bất đắc dĩ mới động .”Ứng” đây không phải là thái độ tiêu cực ,bất đề kháng ,mà là dùng “Vô vi” để đạt tới cảnh giờ “Vô bất vi”
Một cá nhân ,nếu ở đâu cũng hiếu thắng ,tranh giành hơn thua : thì thể lực và tinh thần sẽ bị hao tổn rất nhanh ,tuổi thọ sẽ chẳng được lâu bền
Ngược lại ,nếu hiểu rõ lẽ “ứng địch nhi động” thì sẽ không vọng động 1 cách khinh xuất .Mà không ngừng rèn luyện thể lực và ý chí 1 cách nghiêm túc ,cho đến khi hòan tòan có khả năng thắng địch thì mới hành động ,
Không làm thì thôi ,mà đã ra tay thì không có gì cản nổi .
Đã đánh là thắng.
-Phép thứ 20 :Tam giáo cửu lưu
“Tìm kiếm nhân tài ,phải tìm khắp xa gần .Phải có người tài về từng phương diện để khi cần thì ta có thể xử dụng”.
Một người múôn dựng nghiệp lớn thì phải chiêu nạp nhiều tài năng .
Tử Nghiêm là người nước Trịnh rất biết chọn và dùng người .Công Tôn Huy am hiểu tình hình 4 nước .
Tỳ Thâm thì giỏi bày mưu.
Phùng Giản Tử có tài phán đóan mọi sự .
Tử Đại Thúc thì văn hay chữ tốt.
Gặp sự việc liên quan giữa các nước .Tử Nghiêm hỏi Công Tôn huy ,sau đó bàn mưu tính kế với Tỳ Thâm ,đọan để Phùng Giản Tử phán đoán mọi khả năng diễn biến của sự việc .Sau khi xong việc bèn để Tử Đại thúc sọan lời văn ứng đối với quan khách các nước.
-Phép thứ 21 :Bổ dọc chen ngang
Quỷ Cốc Tử nói : “Dùng cách phân tán uy quyền để chuyển quyền” .
Người tài giỏi nhất phải biết phá vỡ sự liên minh của các đối thủ phân tán uy lực của chúng mà tăng cường uy thế của mình.
-Phép thứ 22 : Trói buộc chi phối
“Lập thế tạo thế .Phải quan sát ,nghe ngóng ,xác định mức độ của người và việc mà định kế an nguy .Xem thiên thời thịnh suy ,địa hình rộng hẹp của các quốc gia ,tài sản của dân chúng ,quan hệ giữa các chư hầu mà dùng thiên hạ.
Xem tài năng ,khí thế ,sức vóc mà dùng người .
Xem cái gì ,người nào cần giấu diếm hay phô bày ;cần dung nạp hay mời chào .Xem Đông Tây ,ngó Nam Bắc .Rồi dùng mọi biện pháp khả dĩ để chi phối ,trói buộc 1 cá nhân ,một tập đòan hay 1 quốc gia làm theo ý múôn của ,mà không thể nào làm khác được” .
-Phép thứ 23 : Liệu địch như thần
“Ngồi 1 chổ mà nắm biết mọi chuyện trong thiên hạ”.
Bậc đại trí có thể qua mọi diễn biến phức tạp ,chằng chịt ,qua hiện tượng mà nhận biết phương hướng hành động thật sự của đối phương.
-Phép thứ 24 : Không lừa nổi ai
“Kế sách dù muôn ngàn kiểu ,cuối cùng cũng không nằm ngoài tâm lý con người”.
Người thông minh ,tỉnh táo ,từ triệu chứng nhỏ nhặt tưởng như không đáng kể mà nắm bắt được sự kiện trọng đại để phá vỡ âm mưu của đối phương.
-Phép thứ 25 :Yếu thắng được mạnh
“Mạnh tích tự từ yếu ;Có tích tụ từ không.Đó là cả 1 nghệ thuật”.
Yếu múôn thắng mạnh ,mềm muốn thắng cứng thì phải tích yếu ,tích mềm .Yếu và mạnh chỉ là 1 cách nói tương đối .Trong tình huống nhất định ,yếu cũng có thể thắng được mạnh.
-Phép thứ 26 : Biến không thành có
“Thần đạo hỗn thuần vi nhất ,dù đạo trời phức tạp đến mấy cũng có thể suy diễn bất tận”.
Bậc quân tử hay thống soái có thể suy luận hàng vạn lý lẽbiến hóa trên thế gian để lý giải các bí ẩn vô cùng vô tận.
-Phép thứ 27 :Uốn ba tấc lưỡi
“Lời lẽ khôn khéo hay giả dối đều lợi hại khôn tả”.
Người khôn khoan thường lợi dụng ngôn từ để vẽ ra lâu đài trên cát ,kích thích người ta hăng hái hay dẫn dụ đối phương mắc lừa .
Múôn được vậy thì phải tô điểm cho thất khéo và nói năng phải thật hùng hồn,đầy sức dẫn dụ và thuyết phục.
-Phép thứ 28 :Thu phục nhân tâm
“Dùng tâm hệ trọng hơn dùng binh”.
Dùng binh vẫn phải lấy việc dùng tâm làm nguyên tắc cao nhất .Chỉ dùng binh mà không dùng đến tâm thì rất là nguy hiểm .Bởi lẽ dùng binh vốn là để giết địch ,nếu ta thất bại thì địch sẽ giết ta .Cho nên dùng binh cũng có thể đem lại hậu quả “tự giết mình”.
Dùng binh hòan toàn không chỉ giới hạn ở việc dùng mệnh lệnh hay kỷ luật bắt người ta phục tùng ,mà còn phải làm co người ta “tâm phục” .Lòng người đã phục thì dù hành động ,động tác có thể chệch chọac ,song hết thảy đều đồng lòng như một.
-Phép thứ 29 : Một công đôi việc
“Vừa lợi cho mình mà cũng lợi cho người,trên hay mà dưới cũng tốt”.
Một mưu kế phải đem lại nhiều hiệu quả thì mới là kế hay ,kiểu như một mũi tên mà bắn trúng 2 con chim.
-Phép thứ 30 :Bốn lạng ngàn cân
“Lượng quyền là gì? Là đo lường lớn nhỏ -xác định nhiều ít”.
Tướng soái thì phải “biết mình biết người”: mới có thể dùng sức “ bốn lạng mà thắng ngàn cân”.
Thông thừơng thì 4 lạng có thể bị đè bẹp bởi ngàn cân.Nhưng nếu sức bốn lạng khôn khéo tránh né sức ngàn cân ,rồi sau đó giáng đòn thì có thể hòan toàn thắng ngàn cân.
-Phép thứ 31 : Ngàn vàng phá địch
“Mọi sự đều có sự cố kết bên trong ,có thể dùng tiền tài ,nhan sắc để phá vỡ sự cố kết ấy”.
Dùng nhiều tiền để mua chuộc ,ly gián nội bộ đối phương có thể thu được thắng lợi mà ở chiến trường không thể nào giành được.
-Phép thứ 32 : Chủ động quyền biến
“Sự việc quý ở chổ mình chủ động ,nếu để cho người giành được phần chủ động thì hỏng”.
Người chủ động thì mới giành được quyền hành ,quyền biến .Đã bị động thì khó mà đạt được thắng lợi .Khi lâm sự phải sáng suốt ,cân nhắc lợi hại ,bỏ cái lợi nhỏ mà tránh cái hại lớn ;nhận cái hại nhỏ để giành cái lợi lớn .
-Phép thứ 33 :Tuyệt đối bí mật
“Giữ kín mưu đồ thì việc mới thành”.
1 vị thống soái hay tướng lĩnh muốn giành thắng lợiphải tuyệt đối giữ bí mật.
-Phép thứ 34: Kích động vua chúa.
“Tiếp xúc ,phán đoán có nhiều cách :hoặc dùng binh ;hoặc dùng chính ,hoặc dùng hỉ ,hoặc dùng nộ…Dùng nộ là kích động”.
Người kkhôn ngoan chẳng những dùng lời lẽ để thuyết phục ,phân trần ,mà còn phải dùng những lời lẽ để kích động ,nói khích vua chúa.
-Phép thứ 35 : Kế sách lâu dài
“Người thông minh thì luôn nhìn cái rất xa để mà kiểm nghiệm”.
Người khôn ngoan thì phải biết nhìn xa trông rộng ,sẽ không tham cái lợi nhỏ mà để mất cái lớn ,tham cái lợi trước mắt mà quên kế sách lâu dài.
Người có đảm lược thật sự thì biết tính tóan sâu xa,chu đáo ,không chỉ thấy cái trước mắt ,không chấp nê tập quán thông thường.
-Phép thứ 36 :Biết trước thời thế
“Dự đóan thời thế để quyết định lợi hại ,quyền biến”.
Một thống soái hay 1 tướng lĩnh nắm được thời là điều trọng yếu .Họ phải hành động lặng lẽ một khi hết thảy chưa ai chú ý ,đến lúc thời cơ chín mùôi là họ ra tay:lập tức làm nên chuyện lớn.
-Phép thứ 37: Không đánh vẫn oai
“Người cầm quân không cần lâm trận mà vẫn làm chủ được thiên hạ ,thế mới đáng gọi là Thần minh”.
Bậc đại trí không cần hao tổn binh lực vẫn khiến cho đối phương phải bãi binh cầu hòa ,thiên hạ nể phục ,đủ sánh với Thần minh.
-Phép thứ 38 : Nắm quyền bá chủ
“Chư hầu chống nhau nhiều không kể xiết .Khi quốc gia buớc vào thời điểm sinh tử tồn vong .Bậc vĩ nhân xuất chúng phải xuất đầu lộ diện nắm lấy cơ hội kiến lập nghiệp vương bá.
-Phép thứ 39:Thay thù thành bạn
“Trên đời không có gì quý mãi ,không có ai làm thống soái vĩnh viễn”.
Thế sự biến hóa vô cùng ,hôm nay họ là kẻ thù ,nhưng ngày mai có thể họ sẽ là bạn của ta ,hoặc ngược lại .
Đó là cả 1 nghệ thuật chuyển hóa.
-Phép thứ 40 : Chỉ dẫn do người
“Tình mà hợp thì vật cũng tụ lại với nhau.Đống củi gần lửa lúc khô dễ bén.Nước rót xuống chổ đất bằng ,nơi nào ẩm thì nước sẽ dừng lại”.
Lòng người cũng vậy .Một thống soái muốn thuyết phục hay là lợi dụng tướng sĩ của đối phương thì phải làm sao cho họ thấy,họ phải chịu ân huệ của mình .
-Phép thứ 41 :Chiêu hiền đãi sĩ
“Dùng mưu kế .Công không bằng tư ,tư không bằng kết,kết sao cho chặt”.
Có nhiều cách kết : có nội kết ;ngoại kết ;sinh kết ;tử kết…
Trương Lương kết thân với Hạng Bá :đó là nội kết.
Trương Nghi –Tô Tần : ấy là ngoại kết.
Lấy đức và ân huệ đã người ,mưu phúc cho dân ,mưu lợi cho nước :ấy là sinh kết.
Tuyên dương người chết ,úy lạo thân thuộc người đã hy sinh :ấy là tử kết.
-Phép thứ 42: Áp đặt chủ quan
“Chớ áp đặt sở thích của mình cho người”.
Cái mình thích co thể người ta không thích ;cái mình ghét có thể người ta lại ưa .Chớ nên suy bụng ta ra bụng người.Cùng 1 sự việc nhưng 2 người nhìn nhận lại khác nhau :kẻ cho là lợi ;người cho là hại .
Nếu chủ quan áp đặt dễ phạm sai lầm ,gây hậu quả đáng tiếc.
-Phép thứ 43 : Mâu thuẫn thống nhất
“Cao mà hóa thấp –lấy mà hóa cho –mất mà hóa được”.
Sự vật bao giờ cũng có 2 mặt đối lập nhau,Có những việc bề ngoài tưởng chừng như bất lợi đối với ta ,nhưng thực chất lại hàm chứa ích lợi to lớn đối với ta.
-Phép thứ 44 :Thủ trước công sau
“Đối phương hùng mạnh thì ta tạm lui chờ thời chuyển biến”.
Một quốc gia ,1 qu6n đội hùng mạnh cũng có lúc phải sơ hở ,suy yếu .
Một quốc gia ,1 quân đội suy yếu ,nếu biết tích lũy thực lực ,nín lặng chờ thời thì có thể trở nên hùng mạnh .Bấy giờ có thể chuyển từ thế thủ sang công.
-Phép thứ 45 :Kiên tâm bền chí
“Anh hùng có lúc cũng sa cơ .Khốn tới cùng ắt biến”.
Người có chí lớn thật sự gặp bất cứ hòan cảnh khó khăn nào cũng kiên trì theo đuổi mục đích của mình ;có thể chịu đừng ,nếm trãi những nổi đau khổ mà người đời không mấy ai chịu nổi .
Chỉ như thế mới có thể tạo nên sự nghiệp lớn lao.
-Phép thứ 46 : Lấy tĩnh chế động
“Trong thiên hạ : con cái thường hay lấy tĩnh đễ thắng con đực ,con cái lấy tĩnh nên ở dưới”.
Hòan cảnh luôn biến động ,nhân sự thường có đua tranh hơn kém .Trong cuộc tranh đua phải bình tỉnh thì mới giữ được tỉnh táo ,không bị mê lọan về thần trí .
Phàm người cương gặp kẻ cương thì sẽ tranh chấp không ngừng ,nhưng gặp người nhu thì sẽ trở nên nhu hòa.
Cho nên mới có câu : Lạt mềm buộc chặt .
Kẻ cương rất dễ bộc lộ điểm yếu ,ta chỉ cần bình tĩnh quan sát ,đợi cho chỗ yếu lộ ra ắt sẽ chế ngự được.
-Phép thứ 47 : Quyết giữ chính nghĩa
“Bậc quân tử có chính nghĩa thì mới chiêu mộ được hiền tài”.
Ta phải là chính đạo thì mới thu phục được lòng người theo về.
-Phép thứ 48 : Đánh vào chỗ yếu
“Người đời có người thích yên tĩnh ,có kẻ thích hành động ,có người hám danh ,có kẻ hám lợi ,có người chính trực ,có kẻ xiểm nịnh ,có người thích sáng sủa ,có kẻ ưa tăm tối”.
Người khôn ngoan thì phải hiểu rõ điểm yếu của đối phương để mà đánh vào đó.
-Phép thứ 49 :Ghi công quên lỗi
“Bậc trí giả không dùng sở đỏan ,mà dùng sở trường của người ngu.Không chú ý đến lỗi lầm mà sử dụng công lao của họ cho nên không bị khốn”.
Bậc quân tử đối với quần thần phải khoan dung độ lượng như thế ,quần thần mới cảm kích mà đền đáp.
-Phép thứ 50 :Hạ chiếu cầu hiền
“Thánh nhân dùng vô vi đãi người có đức”
Bậc thánh minh phải nghĩ mọi cách ,phải dùng lời lẽ thế nào để thu phục người hiền tài ,đức độ”.
-Phép thứ 51 :Lưu danh muôn thuở
“Bậc hiền sĩ dù đã qua đời ,vẫn được mọi người nhắc đến như có tình sâu nghĩa nặng”.
Có những kẻ sống trên đời chỉ biết tranh danh đọat lợi ,tàn sát hung hãn như mãnh thú .Có kẻ đạt được danh lợi thì kiêu căng tự mãn ,bị tiền của và nữ sắc làm mê muội tâm trí ,dù có sung sướng hưởng lạc vài chục năm nhưng khi chết đi sẽ để lại tiếng xấu ngàn thu.
-Phép thứ 52 :Thoái binh chế binh
“Có thuật lui binh ,có phép chế binh”.
Ngụ ý là 1 người bình tĩnh ,thận trọng ,luôn làm điều thiện ,đức độ cao cả,thhì dù 1 thân 1 mình đi vào hang ổ đối phương ,cũng có thể làm cho đối phương phải kính nể không dám tàn hại .Một người như vậy thì nơi nào cũng là đất sống ,không có gì đáng gọi là hiểm nguy.
-Phép thứ 53 :Đại hiền vô địch
”Người giỏi quyền biến là người : trên thông thiên văn ,dưới tường địa lý ,sai khiến quỷ thần ; tùy thời tiết từng mùa mà biến hóa ,khiến cho vạn vật trong thiên hạ phải phục vụ cho mình”.
-Phép thứ 54 :Tiến công nước-người
“Chế ngự người thì nắm được quyền.Đồng thời với việc tiến công nước địch phải chế ngự được người của địch”.
-Phép thứ 55 : Giữ thế cân bằng
“Ít rồi sẽ nhiều ,thiếu rồi sẽ đủ”
Vạn vật trên đời vờua đối lập vừa thống nhất .Lão Tử cũng nói “Đạo trời giống như chổ cao thì dựa vào chổ thấp ,chổ thừa thì bù vào chổ thiếu”.Giữ cho cân bằng,hài hòa là điều tối cần thiết.
-Phép thứ 56 : Ẩn náu chờ thời
“Dụng chi hữu đạo ,dụng chi tất ẩn” .Lại nói “Có đạo của Tiên vương ,có mưu của thánh trí ,thảy đều không lộ liễu”.
Người thông tuệ thường thường ít bộc lộ sở trường của mình ở tất cả mọi nơi ,mà luôn luôn hường nhịn người khác .Nhưng sự ẩn giấu này chỉ là để chờ thời cơ chin muồi sẽ hiển lộ.
-Phép thứ 57 : Sử dụng nội gián
“Con Gấu trước khi vồ mồi thường giấu mình rồi mới xông ra .Muốn hành động thì trước tiên hãy dùng nội gián”.
Người khôn ngoan chẳng những giỏi dùng binh trên chiến trường,mà còn biết cài gián điệp vào hàng ngũ của đối phương để họat động.
-Phép thứ 58 : Uốn nắn sửa sang
“Thánh nhân vừa thấy cong bèn uốn nắn lại cho thẳng ,tùy mức độ lệch lạc mà có cáchtrị thích đáng”.
Khi nền chính trị quốc gia xuất hiện nguy cơ,phải dùng quốc pháp bổ cứu.Nếu nguy cơ nghiêm trọng ,tất phải dùng hình phạt nghiêm khắc.
-Phép thứ 59 : Lùi để tiến tới
“Người giỏi dùng thiên hạ xưa nay tất phải lượng định quyền trong thiên hạ,phải phân biệt nặng nhẹ ,mạnh yếu”.
Bậc hhiền minh thường tránh kẻ mạnh,tạm lùi để tìm cách tiến công.
-Phép thứ 60 :Cho rồi mới lấy
“Muốn chiếm lĩnh được gì của đối phương thì trước hết phải đáp ứng phần nào ý muốn của đối phương ,rồi mới lấy được cái mình cần”.
-Phép thứ 61 :Quan sát gián tiếp
“Thẩm định hư thực,căn cứ vào thị hiếu mà biết ý chí”.
Muốn xem xét 1 người,ta hãy xem thường ngày họ bộc lộ ý thích gì để mà phán đóan tình hình.
-Phép thứ 62 :Đánh rắn dập đầu
“Kẻ mạnh khi chiến thắng thường chóang váng vì thắng lợi,không tấn công giành thắng lợi trọn vẹn,sớm thỏa mãn thì sẽ chuốc lấy tai họa .
Kẻ yếu bị thất bại ,nếu biết bình tĩnh suy xét rút ra bài học ,phục hồi lực lượng ,thì có thể lật ngược thế cờ.
-Phép thứ 63 :Chủ quan hại mình
“Hợp mà không kết ,dương thân mà âm sơ:sự chẳng thành”.
Có những việc tưởng chừng vô cùng thuận lợi,thực ra hết sức khó khăn.Phải đi sâu vào cuộc sống ,nghiên cứu điều tra nắm chắc thực tế ,mới không phạm sai lầm chủ quan,đã làm hại cho mình ,còn hại cả cho người
-Phép thứ 64 : Dẫn dụ đối phương
“Những điều dẫn dụ của thánh nhân :kẻ ngu lẫn kẻ trí đều không nghi hoặc”
Bậc đại trí có thể khôn khéo dẫn dụ được hết thảy mọi người mà đối phươngkhông hề hay biết.
-Phép thứ 65 :Lợi dụng kẻ địch
“Thả mồi sâu bắt cá lớn”.Bậc đại trí không những chỉ biết sử dụng những người hiền tài ở phe mình ,mà còn biết lợi dụng những khe hỡ,những mâu thuẫn trong nội bộ đối phương mà sử dụng người của đối phương phục vụ lợi ích cho mình.
-Phép thứ 66 :Một cây thành rừng
“Đơn thương độc mã vẫn có thể ra vào tùy ý không ai ngăn nổi”.
Đông người vẫn chưa chắc là đã giành phần thắng .Một bàn tay cũng có thể tạo nên tiếng vỗ:chỉ cần chân lỳ thuộc về ta ,thì ta vẫn thành vô địch trong thiên hạ.
-Phép thứ 67 :Tương quan lợi hại
“Dùng lời lẽ để thuyết phục đối phương nhận ra điều phải trái”.
Muốn cho đối phương hành động làm theo ý mình thì ta phải biết khôn khéo thuyết phục ,chỉ rõ điều lợi hại.
-Phép thứ 68 :Hình dung có địch
“Nghĩ rằng có địch để mình nổ lực”
Muốn lập nên sự nghiệp lớn ,phải biết hình dung những thế lực lớn mạnh ngăn cản bước tiến của mình ,từ đó mà ta cố gắng không ngừng để vươn tới mục đích.
-Phép thứ 69: Học hỏi kẻ thù
“Muốn chiến thắng thì phải biết học hỏi ở tất cả mọi người”.
Bậc địa trí khi mưu nghiệp lớn chẳng những học hỏi ở những bậc tiên hiền,mà còn học hỏi những cái hay của chính kẻ thù.
-Phép thứ 70 :Nói mãi phải tin
“Lời nói của số đông có thể biến không thành có”.
Nếu giỏi tung tin thì có thể đánh lạc hướng đối phương.
-Phép thứ 71 :Luồn sau leo cao
“Phái gián điệp luồn sâu vào đầu não đối phương mà hành động ,có thể dành thắng lợi lớn lao bất ngờ”.
Nếu gián điệp của ta mà len lõi sâu vào bộ chỉ huy của địch thì thắng lợi gần như cầm chắc.
-Phép thứ 72: Không màng danh lợi
“Bậc chân nhân hợp với đạo trời”
Một người kinh qua tu luyện lâu dài đạt tới cảnh giới thóat tục thì gọi là “Chân nhân”.
Người ta khi sinh ra ban đầu không khác nhau là mấy .Chỉ sau đó do môi trường ,hòan cảnh khác nhau ;do sự tu luyện nhiều hay ít mà thành ra những hạng người khác nhau.
Người nào chìm đắm trong danh lợi ắt chuốc lấy họa sát thân .
Người nào không màng danh lợi thì sẽ thanh thản vui sướng.
---------- Post added at 09:27 ---------- Previous post was at 09:23 ----------
Ngoài ra còn có :
47 quỷ kế của Quỷ Cốc Tử
LỜI NÓI ĐẦU :
QUỶ CỐC TỬ là tên của 1 nhân vật kỳ lạ, đồng thời là tên 1 cuốn sách lạ kỳ nhất xưa nay trong lịch sử TRUNG QUỐC. Gọi là Thiên cổ kỳ nhân. Thiên cổ kỳ thư.
QUỶ CỐC TỬ là nhân vật kỳ lạ ! Tên tuổi, thân thế, hành tung của QUỶ CỐC được bao phủ bởi những truyền thuyết đậm sắc thần thoại, hư ảo. Ông là 1 người đa tài, môn gì cũng hay, đứng đầu nhiều môn học thuật : Âm Dương gia, Tung Hoành gia; 1 nhà thần toán giang hồ; 1 chính trị gia lỗi lạc, lục thao tam lược gồm tài & cũng là 1 Thần Y nổi tiếng. Ông có 4 đệ tử nổi danh kim cổ : Võ là TÔN TẪN, BÀNG QUYÊN ; Văn là TÔ TẦN,TRƯƠNG NGHI đã tung hoành ngang dọc, tham dự cuộc tranh hùng dữ dội của 7 nước thời Chiến quốc.
QUỶ CỐC TỬ là 1 cuốn sách kỳ lạ ! Chứa đầy mưu kế kỳ lạ, quỷ khốc thần kinh, dành cho các bậc đế vương tu thân, cai trị đất nước 1 cách thông minh. Các biện sĩ, kỳ sĩ, mưu sĩ thuyết phục thiên hạ để tiến thân. Các nhà quân sự, tướng lĩnh quyết thắng trên chiến trường. Những người lãnh đạo thành công trong việc hiểu người ,dùng người để gây dựng sự nghiệp. Những người bình thường dùng để phòng thân, sắp xếp việc nhà, đối nhân xử thế & làm ăn, buôn bán, kinh doanh
Có trăm mưu ngàn kế nhưng cuốn sách này quy về 1 lý là đánh vào lòng người, có người gọi mưu kế là Tâm thuật đấu pháp, là dùng mưu kế chống lại 36 mưu kế lưu hành xưa nay trong thiên hạ. Trải qua 2000 năm, cuốn sách đã được nhiều học giả chuyên tâm chú giải, trong đó có 4 người nổi tiếng là :
NHẠC PHONG, HOÀNG PHỦ THỤY, DOÃN TRI CHƯƠNG & ĐÀO HOẰNG CẢNH. QUỶ CỐC TỬ và cuốn sách của ông đã gây nhiều tranh luận sôi nổi bất tận của nhiều nhà nghiên cứu xưa và nay. Đại văn hào LIỄU TÔNG NGUYÊN cũng rất hăng hái nhập cuộc. Đại thi hào LÝ BẠCH ngày xưa cũng từng làm thơ ca ngợi TÔ TẦN đệ tử của QUỶ CỐC.
Gần đây, 1 nhà xuất bản TRUNG QUỐC đã chọn lọc, hệ thống các công trình nghiên cứu thành sách gọi là QUỶ CỐC TỬ toàn thư. Cuốn sách đã nêu ra 47 mưu kế, khai thác trong sách của QUỶ CỐC, áp dụng thành công trong nhiều lĩnh vực. Mỗi mưu kế có dẫn chứng, minh họa bằng nhũng tiểu truyện hấp dẫn, thú vị trong các tác phẩm nổi tiếng như Sử ký TƯ MÃ THIÊN, Tả truyện, Chiến Quốc sách, Đông Châu Liệt quốc, Tam Quốc chí.....
Quá trình biên dịch chắc còn nhiều thiếu sót. Mong quý bạn thông cảm.
TRẦN SÁNG
QUỶ CỐC TỬ_con người kỳ lạ nhất xưa nay
1. Kỳ lạ là tên ông được nhiều sách vở nhắc đến nhưng rất ngắn gọn, nhiều giả thiết thú vị
Nhiều cuốn sách như : Sử ký, Tô Tần liệt truyện, Trương Nghi liệt truyện, Phong tục thông nghĩa...đều đề cập đến tên QUỶ CỐC , nhung rất ngắn gọn.
VD : Tô Tần người Lạc Dương học với QUỶ CỐC hoặc Trương Nghi người nước Ngụy cùng với Tô Tần học với QUỶ CỐC
Tên QUỶ CỐC cũng được các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều giả thiết :
Theo Dông Châu Liệt Quốc, QUỶ CỐC là tên của cái hang ở đất Dương Thành thược địa phận nhà Chu. Chỗ
ấy núi cao rừng rậm, âm khí nặng nề, không có người ở. Trong núi ấy có người ẩn sĩ đặt hiệu cho mình là QUỶ CỐC.
Theo Hán thư nghệ văn chí, chữ QUỶ được giải thích : Quỷ là u hiển, u là ẩn, hiển là lộ.
Có sách giải thích là QUY, dựa vào câu QUỶ CỐC trả lời TRƯƠNG NGHI & TÔ TẦN : Ngô tử vu sơn cốc. Thế luận vị dư QUY CỐC dã.
Theo truyền thuyết dân gian, mẹ của QUỶ CỐC ăn nhằm thức ăn đựng trong cái chén làm bằng xương quỷ nên gọi là QUỶ CỐT
Thường thì người ta gọi ông là QUỶ CỐC TỬ. TỬ là thầy, chữ này xuất hiện đời Tần, tỏ ý kính trọng.
Có thuyết thì nêu danh tính đầy đủ hơn 1 chút : QUỶ CỐC TỬ là 1 tung hoành gia thời đại Chiến Quốc. Ông họ VƯƠNG, tên HỦ, tự là DANH LỢI, dân gian gọi là VƯƠNG THIỀN lão tổ
Hầu như nhiều nhà nghiên cứu đồng ý với thuyết này và thường dùng để dẫn khi viết về QUỶ CỐC.
2. Thân thế QUỶ CỐC có nhiều truyền thuyết , đậm màu sắc thần thoại
Truyền thuyết dân gian cho rằng, mẹ QUỶ CỐC ăn nhằm thức ăn đựng trong cái bát bằng xương quỷ, thụ thai và mang thai đến....3 năm 6 tháng mới sinh ra ông (?! ). Bà mẹ sinh xong thì mất, ông được con cọp già cho bú mớm nuôi nấng. Ngày đêm theo cọp đi kiếm ăn nên rất tinh ma quỷ quái, chuyên dạy cho người ăn nói khoa trương và mưu kế.
Ban đầu ông không biết chữ nhưng đã sáng tạo ra được 60 Giáp Tý để đoán vận mệnh và thuật bói toán,gọi là Vô tự đại thư, quyển sách lớn không chữ.
Nên người đời rất khâm phục gọi ông là QUỷ CỐC thần sinh.
PHÙNG MỘNG LONG, tác giả Đông Châu Liệt Quốc cho rằng : QUỶ CỐC tiên sinh là 1 ẩn sĩ thông hiểu mọi lẽ trong trời đất, có mấy môn học vấn không mấy người theo kịp. Đó là :
_Số Học , nhật nguyệt tượng vĩ đều thu ở bàn tay, xem việc trước, đoán việc sau nói gì cũng linh nghiệm.
_Binh học , lục thao tam lược biến hóa vô cùng, bày trận hành binh, quỷ thần không biết.
_Du thuyết học, nhớ rộng nghe nhiều, hiểu rõ lý thế, buông lời hùng biện, muôn miệng khôn đương.
_Xuất Thế Học, giữ toàn chân tính, luyện thuốc nuôi mình, không ốm không chết, đắc đạo thành Tiên.
Có thuyết cho rằng QUỶ CỐC là bạn thân của MẶC ĐỊCH, 1 lý thuyết gia của chủ nghĩa kiêm ái, tức là yêu thương tất cả mọi người
QUỶ CỐC cũng từng gặp LÃO TỬ, người đời tôn là Thái Thượng Lão Quân, ở Hàm Cốc.
3.Sinh ở thời đại cá lớn nuốt cá bé quyết liệt
Các nhà nghiên cứu xác định QUỶ CỐC sống trong khoảng cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc và đầu Chiến Quốc thời đại
_Xuân Thu thời đại ( 770-476 trước CN ) : thời kỳ nhà Chu suy yếu , các chư hầu , các địa phương cát cứ mỗi nơi. Lúc này có khoảng 140 nước. Các nước lớn thôn tính dần các nước nhỏ.
_Chiến Quốc thời đại ( 475-221 trước CN ) : thời kỳ chỉ còn 7 nước, ba nước mới thành lập là : Hàn, Ngụy, Triệu ; bốn nước cũ là Tần, tề, Sở và Yên.
Ngay thống kê trên cũng đủ thấy 1 thời đại nhiễu nhương, chiến tranh ác liệt, cá lốn nuốt cá bé, trên 100 nước nhỏ bị tiêu diệt, còn lại 7 nước tranh hùng, để rồi còn 1 nước. Đó là nước Tần.
4.Có bốn đệ tử lớn tung hoành ngang dọc một thời
Cũng theo truyền thuyết, QUỶ CỐC đã thu nhận rất nhiều học trò. Học trò rất đông, ai đến học thì học,ai muốn bỏ đi thì bỏ đi. Tùy theo tư chất từng người để dạy, ai muốn học thuật gì thì truyền thụ thuật ấy.
Chắc vì thế, những học trò sau khi xuống núi hành nghề, truyền đạo, viết sách, phong ông làm Tổ sư hoặc là người sáng lập ra các học phái : Âm Dương gia, Tung Hoành gia, Chính trị gia, Du Thuyết gia
Trong số học trò của QUỶ CỐC có 4 người nổi tiếng là TÔN TẪN , người nước TỀ ; BÀNG QUYÊN, TRƯƠNG NGHI ,người nước NGỤY ; TÔ TẦN , người LẠC DƯƠNG.
TÔN TẪN, BÀNG QUYÊN học binh pháp. TRƯƠNG NGHI , TÔ TẦN học nghề Du thuyết. So sức học thì TÔN TẪN giỏi hơn BÀNG QUYÊN ; TÔ TẦN tự cho sức học của mình không bằng TRƯƠNG NGHI.
_ BÀNG QUYÊN được cử làm nguyên soái nước NGỤY, lấn các nước nhỏ như Vệ , Tống, đánh bại được quân Tề. Vua các nước Tống, Lỗ, Trịnh, Vệ thường phải đến chầu vua nước NGỤY
Xét cho cùng BÀNG QUYÊN là người tài giỏi nhưng vì ghen tài trở nên độc ác, chặt chân đày ải TÔN TẪN.
Lập được công lao sinh chủ quan, cho mình là thiên hạ vô địch nên bị bại dưới tay TÔN TẪN.
_TÔN TẪN , sau khi thoát nạn BÀNG QUYÊN, theo ĐIỀN KỴ, nước TỀ. TÔN TẪN giúp TỀ UY VƯƠNG đánh NGỤY để cứu TRIỆU, giết chết BÀNG QUYÊN ở Mả Lăng, buộc nước NGỤY phải thần phục nước TỀ.
_TÔ TẦN , được ca ngợi là 1 mưu lược gia bậc nhất về hợp tung của thời Chiến Quốc. TÔ TẦN không ngại xa xôi đến xin học QUỶ CỐC. Học xong, TÔ TẦN đã đến các nước CHÂU, TẦN, TRIỆU...nhưng không được dùng.
Đành phải quay về, quần áo rách bươm, người tiều tụy xơ xác. Thấy vậy vợ không thèm chào, chị dâu không nấu cơm cho ăn.
TÔ TẦN phải đem sách của QUỶ CỐC ra học, lấy dùi đâm vế để khỏi ngủ gật, thêm 1 năm nữa. Sau đó, lên đường đến nước YÊN. Theo sử sách nước YÊN là 1 nước yếu nhất giửa các cường quốc. TÔ TẦN được vua YÊN tin dùng , và đề xướng thuyết hợp tung, liên kết 6 nước ( TỀ, SỞ, TRIỆU, HÀN, NGỤY và YÊN ) để chống TẦN. Bấy giờ TÔ TẦN làm Tướng quốc 3 nước YÊN-TRIỆU-TỀ. Tên tuổi TÔ TẦN nổi danh khắp chư hầu. Tài hùng biện của TÔ TẦN như nước chảy có thể làm đổ cả thành cao ngàn trượng, làm gãy cả địa thế xung yếu dài hàng trăm xích
_TRƯƠNG NGHI , cũng học với QUỶ CỐC. sau khi xuống núi đi du thuyết chư hầu. Có lần TRƯƠNG NGHI uống rượu với Tướng Quốc nước SỞ, bị nghi ngờ trộm ngọc. Bọn thuộc hạ của Tướng Quốc đánh cho 1 trận la lết, TRƯƠNG NGHI không nhận tội. Về đến nhà , vợ chì chiết vì do học du thuyết mà mang họa vào thân. TRƯƠNG NGHI chỉ hỏi lưỡi mình còn không. Vợ tức cười, đáp còn. TRƯƠNG NGHI nói : Thế là đủ !
Chứng tỏ ông tin vào miệng lưỡi và tài hùng biện của mình như thế nào !
TRƯƠNG NGHI đến cầu cạnh TÔ TẦN , bị TÔ TẦN lừa, buộc phải vào TẦN dùng thuyết liên hoành để thuyết TẦN HUỆ VƯƠNG , và ông được tin dùng. TRƯƠNG NGHI góp phần giúp nước TẦN cường thịnh, mở mang đất đai, làm cho nước SỞ suy yếu, dọn đường cho việc thống nhất TRUNG QUỐC.
TÔN TẪN, BÀNG QUYÊN, TÔ TẦN, TRƯƠNG NGHI được xem là tứ đại đệ tử của QUỶ CỐC. Bốn người đã từng làm mưa làm gió trong 1 thời Chiến Quốc.
QUỶ CỐC TỬ-cuốn sách lạ kỳ xưa nay
1.QUỶ CỐC TỬ, 1 cuốn sách giáo khoa đặc sắc của nhiều môn học
_Về tâm lý, sách cho rằng dù trăm phương ngàn kế cũng đều qui về tâm lý con người, đánh vào trúng tâm lý, sở thích, dục vọng của con người thì thành công.
Vd : người giàu có thì thích địa vị . Kẻ dũng cảm , cương cường dọa dẫm họ là điều vô nghĩa, khích bác họ thì mới thành công. Người uyên bác thích lý luận, nói nhiều....kẻ trí tuệ thấp thì hay bị lừa. Kẻ bần cùng thì dễ bị mê hoặc bởi lợi lộc.......
_Về ngôn ngữ, nghe người ta nói có thể hiểu được sự buồn, vui, giận, ghét của người đối thoại. Nghe âm thanh, ngôn ngữ âm nhạc, có thể biết được nhân cách của người sáng tạo và sự hưng suy của 1 nước.
_Về hùng biện, nếu sử dụng thành thạo, xảo diệu thuật đóng mở( bãi hạp ) thì không chỉ thuyết phục được người 1 nước mà còn thuyết phục được cả thiên hạ.
_Về quân sự, thì chính binh không bằng kỳ binh. Phải chế ngự được kẻ thù, phải ra tay trước. Lấy tám lạng đè bẹp được ngàn cân. Có khi không cần đánh mà thắng. Lợi dụng địa hình để đánh địch. Dùng vàng bạc để làm tan rã hàng ngũ địch. Cắt lực lượng địch, phân tán địch, làm cho địch mỏi mệt, dũng khí địch tiêu tan.
2.Cuốn sách lắm mưu nhiều kế
Cái kỳ lạ nhất của cuốn sách QUỶ CỐC TỬ là chứa lắm mưu nhiều kế, quỷ khốc thần kinh, thiên biến vạn hóa & dùng mãi không hết.
Thông thường người ta xa lánh những người mưu kế thủ đoạn. Các từ ngữ mưu kế, thủ đoạn bị lên án, ngộ nhận vì do những kẻ ác tâm, gọi là lang hổ chi tâm, lòng lang dạ sói, thi hành để đạt mục đích xấu. Vậy mưu kế là gì?
Thực chất mưu kế, thủ đoạn, kế hoạch sản sinh từ đời sống thực tiễn của con người :
Một người thợ săn mướn bẫy thú phải đánh động, gõ vào vật liệu gì đó, đá chẳng hạn, để thú hoảng sợ chạy ra và tóm lấy. Đó là kế Đầu thạch vấn lộ.
Cây gãy vì côn trùng đục khoét, bức tường đổ là do rạn nứt lâu ngày. Đó là nguyên tắc của sách hư khích, kẻ hở ; sản sinh ra kế ly gián, phản gián. Con hổ trước khi vồ mồi thì thu mình lại để lấy thế và nhảy ra. Đó là kế Dĩ khuất cầu thân, co để duỗi.
Con thỏ thấy hổ quá mạnh, co chân chạy. Là kế Bất tiến nhi thối, không tiến thì lùi. Chạy để bảo toàn tính mạng là thượng sách !
Thực tế, có căm ghét mưu kế cũng không thể bỏ được.Vì sao?
Vì nguồn gốc của mưu kế sản sinh từ đời sống, do đó, người ta căm ghét xa lánh nó cũng không thể được, nó vẫn tồn tại 1 cách khách quan trong cuộc sống hàng ngày.Nhiều mưu kế trở thành bản năng, phản ứng tự nhiên, mà đôi khi người ta cũng không nghĩ đó là mưu kế nữa.
Một chàng trai muốn tán tỉnh 1 cô gái, hé mở cho cô ta biết mình là con nhà gia thế, thông minh học giỏi, sẽ chung tình trước sau như một > Tức là anh chàng đang sử dụng 1 lúc 2 thủ đoạn : Bãi hạp (úp úp mở mở ) và Hư trương thanh thế ( phô trương ).
Muốn giúp 1 người sa cơ lỡ vận có công ăn việc làm, bạn đã giới thiệu với người khác là người này rất tài giỏi, trung thành, tận tâm. Tức là bạn đang sử dụng chiêu Vô trung sinh hữu ( từ không thành có ).
Bạn không thích nghe tiết mục quảng cáo nhưng vẫn thuộc lòng lời giới thiệu 1 cách rành rẽ. Bạn đang vướng vào kế Chúng khẩu luyện kim (nói mãi phải tin ) của các nhà kinh doanh.
........Bạn không thích mưu kế nhưng bạn cũng phải dùng. Không ưa nhưng cũng phải ứng phó. Không muốn nhưng vẫn bị vây bởi giữa muôn trùng mưu kế.
3.Cuốn sách chứa vạn tâm linh và chìa khóa vàng
_ Đáng quý là cái tâm của tác giả đối với nhân dân.
Tác giả khuyên các Vua chúa phải dùng con mắt của nhân dân ( thiên hạ ) để nhìn, dùng tai của nhân dân để nghe, lấy cái tâm của mình để che chở cho nhân dân và lấy cái tâm của nhân dân để mưu cầu hạnh phúc cho mọi người. Mắt như vậy được gọi làthie6n lý nhãn. Tai như vậy gọi là thuận phong nhĩ. Tâm được như vậy gọi là vạn linh tâm.
Chứng tỏ tác giả rất khổ công và dùng cả cái tâm của mình để viết sách, gửi gắm ước mơ vào từng trang sách.Đó là mong nhân dân được hạnh phúc, no ấm và được giáo hóa thành những người văn minh.
_ Cái quý nữa là luôn cầu tiến bộ.
Sách của QUỶ CỐC TỬ cho rằng phản là hiểu quá khứ , ứng là hiểu hiện tại. Có biết quá khứ mới hiểu hiện
tại, có hiểu hiện tại mới biết tương lai. Cái gì không còn thích hợp thì bỏ, cái gì còn thích hợp thì gìn giữ và áp dụng.
Hiểu mình là trí, hiểu người là sáng suốt. Có sáng suốt mới có trí, có trí mới có sự sáng suốt.
Ôn cố tri tân, ôn cũ biết mới ; tri kỷ tri bĩ, biết người biết ta ; đấy là chìa khóa vàng mở cánh cửa đời sống của người thông minh.
Chương 1 : THUẬT MỞ ĐÓNG
(BÃI HẠP CHI THUẬT )
Bãi là mở, hạp là đóng. Thuật bãi hạp là thuật đóng mở, mở đóng, đóng mở.....Bãi là hành động tích cực.
Hạp là hành động tiêu cực.
Thuật bãi hạp căn bản dưa trên nguyên lý Âm Dương. 2 khí này là chủ tể của vạn vật, có khi khí Âm mạnh, có khi khi Dương mạnh; có khi mềm yếu, nhu nhược, có lúc cứng rắn, cương cường; có khi bộc lộ, khai mở, có lúc ẩn tàng, che dấu; có khi nhanh chóng, khẩn trương, có lúc chậm chạp, ung dung....
Dương khí truy cầu Âm khí và Âm khí truy cầu Dương khí. Âm khí phát triển đến cực điểm thì thành Dương khí. Dương khí phát triển cực điểm thì phát triển thành Âm khí.
Khi gặp Dương khí (thời cơ, thuận lợi ) thì tiến lên ; gặp Âm khí 9ba6t1 lợi ) thì thu tàng, ẩn dấu, ngưng
lại.
Thuật bãi hạp được thực hiện qua 4 kế :
_Cương nhu tương tế nghĩa là Trong nhu có cương, trong cương có nhu.
_Sơ nhi bất lậu ............ Tuyệt đối bí mật.
_Dĩ khuất cầu thân ........... co để duỗi.
_Tiên đả hậu ma ........... Trước đánh sau bắt.
1/CƯƠNG NHU TƯƠNG TẾ : TRONG NHU CÓ CƯƠNG, TRONG CƯƠNG CÓ NHU
Cương nhu tương tế là trong cương có nhu, trong nhu có cương. Trong dương có âm, trong âm có dương.
Đóng mở, mở đóng...biến hóa vô cùng.
Muốn thực hiện kế này phải thẩm định đối phương : Có hay không, hư hay thực, lợi và hại trước sau. Hiểu
rõ ý chí của đối phương, tùy tâm lý, dục vọng của đối phương mà thuyết phục.
Thí dụ : Ưa nói khích không ưa thuyết phục
Sau khi Tào Tháo lấy được Kinh Châu , TUÂN DU hiến kế là huy động đại quân ra oai để làm cho TÔN QUYỀN sợ phải đầu hàng.
THÁO nghe theo kế, lập tức hịch sai sứ sang Giang Đông, 1 mặt điểm quân mã,quân bộ và quân thủy,cả thảy 83 vạn, lại nói thăng lên những 100 vạn quân. Thủy lục đều tiến, quân thuyền quân kỵ cùng đi ; theo dọc bờ sông Trường Giang kéo đến. Phía Tây nối liền với đất Kinh Giáp,phía Đông tiếp giáp Kỳ Hoàng,doanh trại nối nhau dài hơn 300 dặm.
* * *
Nói về Giang đông, TÔN QUYỀN đang đóng quân ở Sài Tang, được tin đại quân TÀO THÁO đến Tương Dương.
LƯU TÔN đã ra hàng, mà quân TÀO sớm khuya đi gấp đường lấy Giang Lăng. QUYỀN bèn họp các mưu sĩ lại bàn kế phòng thủ.
LỖ TÚC nói :
_Kinh châu tiếp giáp nước ta,giang sơn hiểm trở,nhân dân giàu có, nếu chiếm được đất ấy thì đủ để xây nghiệp đế vương. Nay LƯU BIỂU mới chết, LƯU BỊ mới thua, tôi xin phụng mạng sang Giang Hạ viếng tang, nhân tiện bảo LƯU BỊ phủ dụ các tướng của LƯU BIỂU, đồng tâm hiệp lực với ta để phá TÀO THÁO, nếu BỊ vui lòng nghe theo thì việc lớn phải xong.
QUYỀN đồng ý, lập tức sai LỖ TÚC đem lễ vật sang Giang Hạ viếng tang.
* * *
HUYỀN ĐỨC đến GIANG HẠ cùng KHỔNG MINH và LƯU KỲ bàn việc.
KHỔNG MINH nói :
_TÀO THÁO thế to lắm,khó lòng địch nổi,không bằng ta sang nhờ TÔN QUYỀN ở Giang Đông làm ứng viện.Nam Bắc giữ miếng với nhau, ta ở giửa kiếm lợi, có gì mà chẳng được.
HUYỀN ĐỨC nói :
_Giang đông lắm mưu thần giỏi, nhìn xa thấy rộng, sao họ chịu dung nạp ta?
KHỔNG MINH cười đáp rằng :
_Nay TÀO THÁO dàn quân trăm vạn, chiếm cứ Giang Hán; tất nhiên Giang Đông phải cho người lại đây dò hư thực thế nào.Nhược bằng có sứ đến,tôi xin mượn 1 cánh buồm thuận gió đến thẳng Giang đông chỉ 3 tấc lưỡi làm cho 2 quân Nam Bắc thôn tính lẫn nhau. Nếu quân Nam được ta cùng đánh TÀO THÁO, lấy đất Kinh Châu.Nếu quân Bắc được , ta thừa thế tính lấy Giang Nam cũng nên.
HUYỀN ĐỨC nói :
_Kế ấy rất hay, nhưng làm thế nào khiến cho Giang Đông sai người đến đây được?
Vừa nói dứt lời, có tin báo rằng :
_TÔN QUYỀN ở Giang Đông sai người lại viếng tang, thuyền đã ghé bờ.
KHỔNG MINH cười nói :
_Việc to chắc xong.
* * *
Biết LỖ TÚC sắp đến KHỔNG MINH dặn HUYỀN ĐỨC rằng :
_Hễ LỖ TÚC hỏi việc động tĩnh của TÀO THÁO thì Chúa công nói 1 mực không biết. Hễ nói đến 2-3 lần thì Chúa công bảo hắn hỏi GIA CÁT LƯỢNG.
Bàn định xong xuơi bèn sai người đón LỖ TÚC vào. TÚC vào viếng tang xong, LƯU KỲ nhận đồ phúng rồi mời TÚC đến gặp HUYỀN ĐỨC. HUYỀN ĐỨC rước vào nhà trong uống rượu. TÚC nói :
_Lâu nay, nghe thấy đại danh Hoàng Thúc nhưng chưa có dịp nào được bái kiến, nay được gặp thực là hân hạnh.
Mới đây Hoàng Thúc đánh nhau với TÀO THÁO, tất biết rõ tình hình. Dám hỏi quân TÀO THÁO ước độ bao nhiêu?
HUYỀN ĐỨC đáp :
_Tôi binh mọn tướng ít, THÁO đến là chạy, có biết gì đến tình hình bên ấy thế nào.
TÚC nói :
_Tôi nghe Hoàng Thúc dùng mưu của KHỔNG MINH 2 phen đánh hỏa công làm cho TÀO THÁO kinh hồn lạc phách , sao Hoàng Thúc lại bảo là không biết?
HUYỀN ĐỨC nói ;
_Họa chăng hỏi KHỔNG MINH thì biết đươc rõ.
TÚC nói :
_KHỔNG MINH đâu, xin cho được gặp 1 chút.
HUYỀN ĐỨC sai mời KHỔNG MINH ra.
TÚC vái chào rồi hỏi :
_Xưa nay vẫn mộ tài đức tiên sinh, chưa được bái kiến bao giờ. Nay may mắn được gặp, xin cho biết việc an nguy ngày nay.
KHỔNG MINH nói :
_Mưu gian của TÀO THÁO tôi đã biết cả, chỉ giận sức mình chưa đủ, nên còn tạm lánh đó thôi.
TÚC lai hỏi :
_Hoàng thúc nay định ở đây hay đi đâu?
KHỔNG MINH đáp :
_Sứ quân tôi có quen Thái thú NGÔ THẦN ở Thương Ngô, nay sắp đến đó nhờ.
TÚC nói ;
_NGÔ THẦN lương khan binh ít, giữ mình còn chẳng nổi, cho ai nhờ được !
KHỔNG MINH nói ;
_Chổ ấy tôi cũng biết không ở lâu được. Nay hãy nương tạm, rồi sẽ liệu kế khác.
TÚC nói :
_TÔn tướng quân tôi hùng cứ 6 quận, binh giỏi lương nhiều, lại kính hiền trọng sĩ, anh hùng miền Giang Đông nhiều người quy phục. Nay xin hiến ông 1 kế. Chi bằng tiên sinh sai người tâm phúc sang liên kết với Đông Ngô để cùng mưu toan việc lớn.
KHỔNG MINH nói :
_LƯU sứ quân và TÔn tướng quân xưa nay không quen nhau, sợ uổng mất lời.Vả lại, không có ai tâm phúc có thể sai đi được.
TÚC nói :
_Lệnh huynh GIA CÁT CẨN hiện đương làm tham mưu ở Giang Đông, đêm nagy2 mong được gặp lệnh tiên sinh. Tuy tôi không có tài, xin cùng tiên sinh vào ra mắt TÔN tướng quân để bàn việc lớn.
HUYỀN ĐỨC nói :
_ KHỔNG MINH là thầy ta, rời ta 1 lúc không xong, đi thế nào được?TÚC cố nài 3-4 lần, HUYỀN ĐỨC cứ giả vờ không nghe, KHỔNG MINH nói :
_Việc đã kíp rồi, tôi xin phụng mệnh đi 1 chuyến.
HUYỀN ĐỨC bấy giờ mới đồng ý.
Sau khi dùng miệng lưỡi bẻ bọn mưu sĩ Giang Đông xong KHỔNG MINH mới được gặp TÔN QUYỀN.
Thi lễ xong, QUYỀN mời KHỔNG MINH ngồi. Các quan văn võ sắp hàng 2 bên.
LỖ TÚC đứng bên cạnh chỉ đợi xem KHỔNG MINH nói với QUYỀN thế nào. KHỔNG MINH giải bày ý kiến của LƯU BỊ, rồi liếc mắt nhìn TÔN QUYỀN , thấy QUYỀN mắt biếc râu đỏ, tướng mạo đường bệ, liền nghĩ thầm rằng : "Người này tướng mạo khác thường, chỉ ưa nói khích không ưa thuyết phục; đợi khi nào hỏi, bấy giờ ta sẽ khích cho mấy câu là xong".
Khi tả hữu dâng trà xong, TÔN QUYỀN nói :
_ tôi thường nghe LỖ TỬ KÍNH nói đến tài của túc hạ, nay may được gặp, xin túc hạ có điều gì hay chỉ bảo cho
KHỔNG MINH đáp :
_Tôi vô tài ít học. Không dám để Ngài hỏi.
QUYỀN nói :
_Túc hạ mới rời Tân Dã, giúp LƯU DỰ CHÂU đánh nhau với TÀO THÁO, tất biết tình hình bên THÁO thế nào?
KHỔNG MINH đáp :
_LƯU DỰ CHÂU binh đơn, tướng ít, thành Tân Dã nhỏ lại không có lương, đâu dám chống nhau với TÀO THÁO?
QUYỀN lại hỏi :
_Quân THÁO nhiều hay ít?
KHỔNG MINH nói :
_Cả quân mã, quân bộ và quân thủy, ước được hơn trăm vạn.
QUYỀN trố mắt ngạc nhiên hỏi :
_Ông nói dối ta chăng?
KHỔNG MINH đáp :
_Không dám dối đâu : TÀO THÁO ở Duyện Châu đã có 20 vạn; bình xong VIÊN THIỆU , lại thêm được năm sáu mươi vạn; quân mới mộ ở Trung Nguyên được ba bốn mươi vạn. Tính ra có kém gì 150 vạn. Thế mà LƯỢNG nói có 100 vạn là vì sợ người Giang Đông mất vía đó thôi !
LỖ TÚC đứng cạnh , nghe nói tái mặt lại, đưa mắt cho KHỔNG MINH. KHỔNG MINH cứ lờ đi.
QUYỀN lại hỏi :
_Chiến tướng của TÀO THÁO nhiều hay ít?
KHỔNG MINH nói :
_Những mưu sĩ lắm mưu nhiều trí và những tướng đấu tài đánh giỏi ít ra cũng được vài nghìn.
QUYỀN lại hỏi :
_Nay TÀO THÁO đã bình được Kinh, Sở còn tham vọng gì nữa không?
KHỔNG MINH đáp :
_TÀO THÁO hiện nay hạ trại kín ven sông, sắm sửa thuyền bè, chẳng lấy Giang Đông thì lấy đâu.
QUYỀN lại hỏi :
_Đối với âm mưu của TÀO THÁO , nên đánh hay không, xin túc hạ quyết định giúp ta 1 lời.
KHỔNG MINH nói :
_LƯỢNG tôi có 1 lời , nhưng chỉ sợ tướng quân không chịu nghe thôi.
QUYỀN nói :
_Xin cho nghe lời cao kiến.
KHỔNG MINH nói :
_Trước kia thiên hạ đại loạn, nên tướng quân phải dấy binh ở Giang Đông, LƯU DỰ CHÂU tụ quân ở Hán Nam, để cùng tranh giành với TÀO THÁO.
Nay THÁO đã dẹp xong nạn lớn, tình hình sắp ổn định xong. Vừa đây THÁO lại phá được Kinh Châu, uy danh lừng bốn bể. Bây giờ, dẫu có anh hùng cũng không có đất dụng võ,cho nên LƯU DỰ CHÂU phải trốn tránh đến đây .
Vậy xin tướng công liệu mà tính toán công việc.Nếu tướng quân có thể lấy quân Ngô,Việt mà chống TÀO được,thì nên sớm cự tuyệt nó đi.
Nếu không muốn thế, sao không theo ngay lời các mưu sĩ đã bàn, thu quân mã, xếp áo giáp lại, rồi ngoảnh mặt về Bắc mà hàng?
TÔN QUYỀN chưa kịp đáp, KHỔNG MINH lại nói rằng :
_Tướng quân ngoài mặt thì giả tiếng phục tùng nhưng trong bụng vẫn còn ngờ vực. Việc kíp rồi mà không quyết đoán thì vạ đến nơi rồi đó !
TÔN QUYỀN lại hỏi :
_Nếu quả như lời ông, thì sao LƯU DỰ CHÂU không hàng TÀO đi?
KHỔNG MINH đáp :
_Ngày xưa ĐIỀN HOÀNH là 1 tráng sĩ nước TỀ còn biết giữ lễ nghĩa không chịu nhục,huống chi LƯU DỰ CHÂU là tôn thân nhà Hán, anh hùng lừng lẫy trên đời, kẻ sĩ đều trông mong. Việc không xong là bởi trời, có đâu lại chịu luồn cúi người ta?!
TÔN QUYỀN nghe KHỔNG MINH nói xong, nét mặt hầm hầm, rủ áo đứng dậy, lui vào nhà sau. Các quan cũng tủm tỉm cười và giải tán.
LỖ TÚC trách KHỔNG MINH rằng :
_Sao tiên sinh lại nói thế? May mà chủ tôi rộng lượng, không nỡ trách ngay, chứ như lời tiên sinh vừa nói là khinh miệt chủ tôi lắm đấy !
KHỔNG MINH ngẩng mặt cười, nói :
_Sao không có lượng bao dung thế?Ta đã có được mẹo phá TÀO THÁO,vì không hỏi tới, nên tôi không nói đó thôi.
TÚC nói :
_Nếu quả tiên sinh có mẹo hay, tôi xin mời chủ tôi ra để tiên sinh dạy cho.
KHỔNG MINH nói :
_Quân trăm vạn TÀO THÁO , ta coi như đàn kiến, chỉ giơ tay 1 cái là tan ra như cám cả !
TÚC nghe nói, liền vào nhà sau gặp TÔN QUYỀN. QUYỀN lúc ấy còn bực, ngoảnh lại bảo LỖ TÚC rằng :
_ KHỔNG MINH khinh ta quá chừng !
TÚC nói :
_Tôi cũng đã trách KHỔNG MINH , KHỔNG MINH cười và trách lại rằng Chúa công không có lượng dung người,cho nên KHỔNG MINH có mẹo phá TÀO cũng không muốn nói ra cho biết. Xin Chúa công thử hỏi KHỔNG MINH xem thế nào?
QUYỀN bèn lập tức nguôi giận làm vui nói :
_À, thế ra KHỔNG MINH vẫn có mẹo hay, nên nói khích ta. Ta 1 lúc nghĩ nông cạn, tí nữa làm lỡ mất việc to.
Lập tức cùng LỖ TÚC lại ra triều đường, mời KHỔNG MINH vào nói chuyện.
QUYỀN xin lỗi KHỔNG MINH rằng :
_vừa rồi tôi trót lỡ lời, xin tiên sinh tha lỗi cho.
KHỔNG MINH cũng tạ lại rằng :
_LƯỢNG tôi nói năng lỗ mãng, xin tướng quân cũng thứ tội cho.
QUYỀN mời ngay KHỔNG MINH vào nhà sau, làm tiệc khoản đãi. Được vài tuần rượu, QUYỀN hỏi rằng :
_TÀO THÁO vốn chỉ ghét LÃ BỐ, LƯU BIỂU ,VIÊN THIỆU, VIÊN THUẬT, LƯU DỰ CHÂU với tôi mà thôi. Nay đã trừ được cả,duy chỉ còn DỰ CHÂU với tôi.
Tôi không thể đem cả nước Ngô dâng cho người ta được. Kế của tôi đã quyết, nhưng phi LƯU DỰ CHÂU giúp cho thì không ai đương nổi TÀO THÁO bây giờ. Mà LƯU DỰ CHÂU vừa mới thua trận, làm thế nào mà chống lại nạn này?
KHỔNG MINH nói :
_DỰ CHÂU mới thua nhưng QUAN VÂN TRƯỜNG còn thống lĩnh hàng vạn tinh binh, LƯU KỲ ở Giang Hạ cũng có chừng vạn quân sĩ.
Quân TÀO từ xa đến, tất cũng mỏi mệt ; mới đây lại đuổi DỰ CHÂU , quân khinh kỵ đi 300 dặm 1 ngày, khác nào nỏ cứng đã giương lên đuối sức, chưa chắc đã bắn thủng được mảnh lụa mỏng.
Vả lại ngươi phương Bắc không quen đánh thủy ; quân dân ở Kinh Châu gặp thế bí phải phục TÀO , chứ không phải tự nguyện. Nay tướng quân thật muốn đồng tâm hiệp lực với DỰ CHÂU , thì làm gì không phá được TÀO THÁO.
Quân TÀO mà bị phá, tất phải kéo về Bắc, thì thế Kinh, Ngô lại mạnh mà hình thành thế chân vạc được. Cơ hội được thua lúc này, xin tướng quân hãy nghĩ cho kỹ mà quyết đi !
QUYỀN mừng lắm , nói :
_Mấy lời của tiên sinh thật đã làm sáng mắt cho tôi. Ý tôi đã quyết, không còn hồ nghi gì nữa.
Ngay hôm ấy, QUYỀN bàn bạc cất quân để cùng đi phá TÀO THÁO.
LẠM BÀN :
Xem thí dụ trên, ta thấy rõ 3 thế lực 3 mưu kế chính :
_TÀO THÁO dùng kế hư trương thanh thế, dàn quân 83 vạn còn nói thăng, nói quá lên, buộc TÔN QUYỀN sợ hãi mà hàng.
_TÔN QUYỀN chưa biết rõ thực lực của TÀO THÁO , 1 mặt phòng bị, 1 mặt muốn nhờ LƯU BỊ liên kết với tướng tá của LƯU BIỂU. Nội bộ TÔN QUYỀN chia làm 2 phe chủ chiến và chủ hòa đang bàn luận sôi nổi, nên QUYỀN chưa dám đưa ra chính kiến.
_LƯU BỊ, KHỔNG MINH dùng cách tọa sơn quan hổ đấu, nhìn 2 cọp đánh nhau để hưởng lợi. KHỔNG MINH nói rõ ý đồ đó với LƯU BỊ : Nếu quân Nam được, cùng đánh TÀO THÁO lấy Kinh Châu. Nếu quân Bắc được, thừa thế lấy Giang Nam.
KHỔNG MINH VÀ THUẬT CƯƠNG NHU TƯƠNG TẾ :
KHỔNG MINH muốn gặp LỖ TÚC để sang Giang Nam, dặn LƯU BỊ nếu TÚC hỏi quân tình TÀO THÁO thì nói không biết để TÚC gặp KHỔNG MINH........đóng để mở.
LƯU BỊ, KHỔNG MINH đóng rất giỏi vỡ kịch này. LƯU BỊ thực tình muốn KHỔNG MINH sang Giang đông liên quân với TÔN QUYỀN nhưng vẫn giả vờ là không muốn rời KHỔNG MINH.............lại đóng để mở.
Sang đến Giang Đông, thấy tướng TÔN QUYỀN là người cương cường, không khuất phục, KHỔNG MINH khiêu khích, hư trương thanh thế, nói TÀO THÁO là quân nhiều tướng giỏi, thuyết TÔN QUYỀN đầu hàng nhục nhã
.....lại là đóng để đối phương bộc lộ tính khí.
Khi TÔN QUYỀN tức giận là bộc lộ ý chí không muốn hàng TÀO, KHỔNG MINH lại hé mẹo diệt trăm vạn quân TÀO như diệt kiến với LỖ TÚC........là cách mở để TÔN QUYỀN lọt vào.
Gặp TÔN QUYỀN lần này, KHỔNG MINH mới mở bộc lộ hết kế sách đánh TÀO với TÔN QUYỀN. TÔN QUYỀN vững tâm liên minh với LƯU BỊ.
Tùy cơ ứng biến, khi cần úp thì úp, nhu thì nhu ; khi cần mở thì mở, cương thì cương. Khi úp để mở,
khi mở để úp. Trong úp có mở , trong mở có úp , biến hóa vô cùng.
2.sƠ Nhi BẤt LẬu : TuyỆt ĐỐi BÍ MẬt.
2.SƠ NHI BẤT LẬU : TUYỆT ĐỐI BÍ MẬT.
Sơ nhi bất lậu tựa như bình rượu đậy kín, không để giọt nào chảy ra ngoài. Có nghĩa là giữ tuyệt đối bí mật.
Một trong những kế sách lớn của thuật bãi hạp, đóng mở, ứng dụng vào quân sự. Khi mở thì kỹ càng, toàn vẹn, khi đóng thì giữ gìn tuyệt đối bí mật.
Việc dùng binh phải giữ bí mật, nếu lộ bí mật thì đối phương đề phòng hoặc tương kế tựu kế tìm cách phản công.
Khi nội bộ tướng lĩnh có người làm phản, đem bí mật quân sự tiết lộ cho đối phương biết, lúc đó phải tùy cơ ứng biến thật giỏi mới bảo toàn được lực lượng và thủ thắng.
THÍ DỤ : Mượn tiếng.
QUẢN DI NGÔ nói với TỀ HOÀN CÔNG :
_ Mấy năm nay ta cứu nước YÊN, giúp nước LỖ, đắp thành cho nước HÌNH và VỆ, chư hầu 1 lòng tin phục chính là lúc có thể dùng quân chư hầu ; để cứu TRỊNH thì không gì bằng đánh SỞ , nếu ta đánh SỞ tất phải hội quân chư hầu lại.
TỀ HOÀN CÔNG nói :
_ Ta hội quân chư hầu thì nước SỞ tất biết mà phòng bị , ta khó mà đánh được.
QUẢN DI NGÔ nói :
_ Nước SÁI có lỗi với Chúa công, ta muốn đánh đã lâu, mà SỞ tiếp giáp với SÁI. Nay ta mượn tiếng đi đánh
SÁI, nhân tiện đem quân đánh SỞ thì SỞ không biết mà phòng bị.
* * * *
Để tiến đánh nước SỞ, 1 mặt TỀ HOÀN CÔNG mật ước với các nước GIANG, HOÀNG, LỖ ; 1 mặt muốn cắt vây cánh nước SỞ nên viết thư sai vua nước Từ đem quân đánh nước THƯ. Nước Từ đánh thư xong, TỀ HOÀN CÔNG bảo vua TỪ
đóng quân ở kinh đô nước THƯ phòng sự nguy cấp. Bấy giờ SỞ đem quân đánh nước TRỊNH.
TRỊNH VĂN CÔNG xin giảng hòa cho dân khỏi khổ.
Quan đại phu KHỔNG THÚC can :
_ Tề sắp đánh SỞ là vì nước ta đó, nên gắng đợi.
TRỊNH VĂN CÔNG sai người cáo cấp với TỀ HOÀN CÔNG. TỀ HOÀN CÔNG cho TRỊNH phao tin quân TỀ sang cứu TRỊNH khiến cho Sở không dám tiến binh, rồi cho 1 toán quân hội với chư hầu đánh SỞ, cho QUẢN DI NGÔ làm
đại tướng. Lại sai THỤ ĐIÊU đem quân đánh nước SÁI.
* * * *
Nước SÁI vẫn cậy thế SỞ không phòng bị. Khi quân TỀ đến mới chống giữ. THỤ ĐIÊU diễu quân dưới chân thành nước SÁI. SÁI hầu biết rõ THỤ ĐIÊU là kẻ tiểu nhân, sai đem vàng lụa lễ THỤ ĐIÊU. THỤ ĐIÊU nhận lễ và cho biết TỀ HOÀN CÔNG sẽ còn đánh SỞ và các nước sẽ phá hũy kinh thành nước SÁI.
SÁI hầu sợ hãi trốn sang SỞ, dân SÁi bỏ chạy cả.
SÁI hầu đến SỞ gặp SỞ THÀNH VƯƠNG , biết rõ mưu kế TỀ HOÀN CÔNG ,sai quân sĩ phòng giữ các nơi, triệu ĐẤU CHƯƠNG ở TRỊNH về.
* * * * *
Khi TỀ HOÀN CÔNG cử đại binh sang SỞ. Đến biên giới nước SỞ thấy 1 người mũ áo chỉnh tề, đứng ở bên đường, khúm núm cúi chào :
_ Chẳng hay có phải tôi được tiếp kiến TỀ hầu không ạ? tôi là sứ thần nước SỞ chờ ngài đã lâu lắm rồi.
Nguyên người ấy tên là KHUẤT HOÀN , là 1 quý tộc nước SỞ, làm quan Đại Phu, bấy giờ phụng mệnh SỞ THÀNH VƯƠNG ra thương thuyết với quân nước TỀ.
TỀ HOÀN CÔNG hỏi QUẢN DI NGÔ rằng :
_Sao người nước SỞ lại biết trước là ta đem quân tới đây?
QUẢN DI NGÔ nói :
_ Tất là có người nào đem mưu kế cúa ta tiết lộ cho người SỞ biết. Nhưng nay họ đã sai sứ đến đây, là có ý muốn bày tỏ điều gì đó, tôi xin lấy đại nghĩa mà trách quở người ấy khiến cho hắn xấu hổ thì có lẽ không cần phải đánh mà tự khắc họ phải phục.
Nói xong, QUẢN DI NGÔ ra tiếp kiến KHUẤT HOÀN. 2 người chấp tay vái chào nhau. KHUẤT HOÀN nói:
_ Chúa công tôi nghe tin quý quốc đem quân tới đây, vậy có sai tôi ra để thưa với quý quốc rằng, TỀ và SỞ nước nào làm chủ nước ấy,nước Tề ở Bắc Hải,nước Sở ở Nam Hải,trâu ngựa không đánh hơi nhau được. Chẳng
hay vì cớ gì mà quý quốc lại đi vào đất nước chúng tôi, xin quý quốc ngỏ lời cho biết.
QUẢN DI NGÔ nói :
_ Ngày xưa, vua THÀNH VƯƠNG nhà Chu phong cho tiên quân là THÁI CÔNG ở nước TỀ, có dặn 1 câu rằng. Các nước chư hầu, nước nào không theo mệnh thiên tử nhà Chu, thì tiên quân ta được quyền đem quân đi đánh dẹp. từ khi nhà Chu thiên sang Đông Đô, các nước chư hầu tiếm quyền Chúa Công ta lại phụng mệnh làm bá chủ.
Nước SỞ nhà ngươi theo lệ mỗi năm phải cống cho thiên tử nhà Chu 1 bó cỏ mao để dùng về việc cúng tế,
thế mà dám bỏ liều không cống, bởi vậy ta phải đến đây để đòi. Vả lại vua CHIÊU VƯƠNG nhà Chu ngày trước đi sang địa giới nước SỞ mà không thấy trở về, ấy cũng là bởi cớ nước SỞ ; người còn nói gì?!
KHUẤT HOÀN nói :
_ Từ khi nhà Chu suy yếu, các nước chư hầu đều bỏ lễ triều cống, chẳng riêng gì nước SỞ tôi. Tuy vậy, về việc cống cỏ bao mao, thì Chúa Công tôi cũng xin chịu lỗi ; còn về việc vua CHIÊU VƯƠNG không trở về là vì cớ đắm thuyền. xin quý quốc cứ hỏi người ở ngoài bờ sông thì khắc biết ; Chúa Công tôi không dám nhận lỗi ấy. Vậy tôi xin về nói lại với Chúa Công tôi.
Nói xong liền quay xe trở về. QUẢN DI NGÔ bảo TỀ HOÀN CÔNG rằng :
_ Người nước SỞ còn quật cường lắm, chưa có thể lấy miệng lưỡi mà khuất phục được, ta phải tiến quân lên để ra uy mới được.
Nói xong, truyền cho các nước đều tiến quân đến đóng ở đất Kinh Địa. SỞ THÀNH VƯƠNG cho TỬ VĂN làm đại tướng, đem quân ra đóng ở đất Hán Nam. TỬ VĂN nói với SỞ THÀNH VƯƠNG rằng :
_ QUẢN DI NGÔ là 1 người giỏi binh pháp, nay đem quân các nước đến đây, tất là đã có mưu kế vạn toàn rồi, ta nên sai sứ đi 1 lần nữa để dò xem mạnh yếu thế nào, bấy giờ hoặc đánh hoặc hòa, ta sẽ tùy liệu.
SỞ THÀNH VƯƠNG nói :
_ Bây giờ biết sai ai được?
TỬ VĂN nói :
_ KHUẤT HOÀN đã biết mặt QUẢN DI NGÔ thì nên sai đi lần nữa.
KHUẤT HOÀN nói :
_ Lần trước tôi đã nhận cái lỗi không cống cỏ bao mao. Nếu Đại vương muốn giảng hòa thì tôi xin gắng đi,
để gỡ mối lôi thôi cho 2 nước. còn như muốn đánh , thì xin sai người nào hơn tôi mới đi được.
SỞ THÀNH VƯƠNG nói :
_Hoặc đánh hoặc hòa, ta cho ngươi được tùy thương thuyết.
KHUẤT HOÀN phụng mệnh SỞ THÀNH VƯƠNG , lại đến chỗ quân TỀ đóng, xin vào yết kiến TỀ HOÀN CÔNG.
QUẢN DI NGÔ nói với TỀ HOÀN CÔNG rằng :
_ Nước Sở lại cho sứ đến, tất là xin giảng hòa, Chúa Công nên tiếp đãi cho tử tế.
KHUẤT HOÀN vào yết kiến TỀ HOÀN CÔNG , sụp lạy 2 lạy. TỀ HOÀN CÔNG đáp lễ lại rất tử tế, rồi hỏi xem ý nuốn thế nào?
KHUẤT HOÀN nói :
_ Chúa Công tôi vì cớ không cống cỏ bao mao, để quý quốc phải đem quân tới đây, Chúa Công tôi biết tội lắm rồi ; nếu quý quốc chịu rút quân khỏi 1 xá, thì Chúa Công tôi há không dám vâng mệnh.
TỀ HOÀN CÔNG nói :
_ Nếu Đại Phu biết khuyên quốc quân giữ trọn chức phận, khiến cho ta có thể tâu lại với thiên tử được, thì ta còn đợi gì nữa mà chẳng rút quân.
KHUẤT HOÀN về nói với SỞ THÀNH VƯƠNG rằng :
_ Tôi nói với TỀ hầu, TỀ hầu đã chịu rút quân rồi. Tôi lại có hẹn với TỀ hầu xin đem cống cỏ bao mao, vậy Đại Vương chớ có thất tín.
SỞ THÀNH VƯƠNG lại sai người đ0i do thám xem chư hầu đã rút quân về chưa. Quân sĩ về báo rằng:
_Quân các nước rút ra ngoài 30 dặm , đóng tại đất Thiệu Lăng.
SỞ THÀNH VƯƠNG nói :
_ TỀ hầu đã chịu rút quân, thế là có ý sợ ta !
Nói xong , lại toan bỏ không cống cỏ bao mao nữa.
TỬ VĂN nói :
_ Vua 8 nước chư hầu còn không nỡ thất tín với 1 kẻ thường dân , thế mà Đại Vương lại muốn cho 1 kẻ thường dân thất tín với Vua các nước sao?
SỞ THÀNH VƯƠNG nín lặng , không nói gì cả , rồi sai KHUẤT HOÀN đem mấy xe vàng lụa đến đất Thiệu Lăng để khao quân chư hầu. Lại sai sửa soạn sẵn 1 xe cỏ bao mao , đem đến trình với TỀ HOÀN CÔNG để rồi sai
sứ vào cống thiên
LẠM BÀN :
a/. Mục tiêu của TỀ HOÀN CÔNG và QUẢN DI NGÔ là đánh SỞ nhưng mượn cớ là đánh SÁI để SỞ không phòng bị, thừa cơ đánh úp.
b/. Việc chuẩn bị đánh nước SÁI và nước SỞ của TỀ HOÀN CÔNG và QUẢN DI NGÔ rất hoàn bị :
_ giảng hòa, liên minh, mật ước với các nước GIANG, HOÀNG, THƯ và LỖ.
_ chặt bớt vây cánh của SỞ là nước TỪ, đánh nước SÁI.
_ cầm chân quân SỞ bằng cách phao tin cứu TRỊNH.
c/. Bí mật bị tiết lộ.
THỤ ĐIÊU đã tham vàng bạc và tiết lộ bí mật quân sự cho SÁI biết, SÁI báo với SỞ và SỞ đã phòng bị.
QUẢN DI NGÔ nhanh chóng hiểu rằng mưu kế của TỀ đánh SỞ đã bại lộ, nên 1 mặt tiến quân để dọa dẫm, 1 mặt tiến hành thủ đoạn ngoại giao để cho SỞ cầu hòa. Tùy cơ ứng biến rất tài tình.
d/. Kết cục , 1 chuyến xuất quân của TỀ HOÀN CÔNG và QUẢN DI NGÔ : Nước SÁi không phòng bị chỉ dựa dẫm vào nước SỞ nên đã bại trận, nước TỪ bị nước THƯ thôn tính, nước TRỊNH được cứu, nước SỞ cầu hòa.
e/. Vai trò của KHUẤT HOÀN cũng khá nổi bật, báo cho TỀ biết là SỞ đã biết mưu kế của Tề, ngăn TỀ tiến công. Dùng ngoại giao để Sở khỏi lâm vào cuộc chiến. Cũng là cách tương kế tựu kế.
3. DĨ KhuẤt CẦu ThÂn : Co ĐỂ DuỖi.
3. DĨ KHUẤT CẦU THÂN : CO ĐỂ DUỖI.
Dĩ khuất cầu thân là co mình lại để lấy thế duỗi ra. Tượng như con Rồng, cuộn thì ngắn vươn thì dài, như con Hổ thu mình để vươn ra chụp con mồi, như con cáo rút cổ lại để nhảy ra cắn người.
Là những thuật giả bệnh, giả sắp chết ,giả điên...để lừa đối phương.Đối phương tưởng là vô hại, chủ quan không phòng bị, từ đó tung đòn ác hiểm để tiêu diệt.
Kế này dựa trên đạo lý có Âm Dương, Dương động thì hành động, Âm ngưng thì thu tàng, Dương động thì xuất, tùy theo Âm mà nhập. Khi chưa gặp thời cơ, cơ hội, cần lui thì lui; khi gặp thời cơ, cơ hội, cần tiến thì tiến.
Lui thì thanh tĩnh nhẹ nhàng, tiến thì nhanh ồ ạt. Lui như Rồng ẩn vực sâu. Tiến như Hổ lao xuống núi.
THÍ DỤ : A_ TƯỞNG ĐÃ CHẾT.
BÀNG QUYÊN và TÔN TẪN là bạn đồng môn, cùng học với QUỶ CỐC. BÀNG QUYÊN sợ TÔN TẪN giỏi hơn mình, sẽ tranh giành ảnh hưởng và địa vị của mình ở NGỤY,bèn tìm cách hại TÔN TẪN.
_ Đại Vương giận lắm, muốn xử cực hình, tiểu đệ phải kêu mãi và hết sức bảo đảm, mừng cho đại huynh được toàn tính mệnh, nhưng đại huynh phải chặt chân và thích chữ vào mặt, đó là theo pháp luật nhà NGỤY, không phải là tiểu đệ không hết sức kêu xin.
TÔN TẪN nói :
_Tiên sinh đã nói dẫu TÔN TẪN này có bị tàn hại nhưng không phải là đại hung, nay được toàn mệnh như thế này là nhờ ơn đại huynh, TẪN này không dám quên ơn báo.
BÀNG QUYÊN bèn sai đao phủ trói TÔN TẪN lại , chặt bỏ 2 xương bánh chè ở đầu gối. TẪN kêu rú lên 1 tiếng rồi ngã lăn ra không biết gì,hồi lâu mới tỉnh; kẻ hành hình lại dùng kim châm vào mặt TẪN 4 chữ:tư thông ngoại quốc,rồi lấy mực bôi vào.
BÀNG QUYÊN giả ý kêu khóc, lấy thuốc rịt đầu gối, dùng lụa quấn bọc, sai người kiệu ra thư quán, dùng lời nói ngon ngọt để yên ủi.
Chừng hơn 1 tháng vết đau đã liền, nhưng vì mất 2 xương bánh chè, 2 chân yếu đuối không đi lại được, chỉ xếp vòng tròn mà ngồi. TÔN TẪN đã trở thành phế nhân, mỗi ngày chịu ơn BÀNG QUYÊN cung phụng 3 bữa, lấy làm buồn.
BÀNG QUYÊN bèn nhờ TÔN TẪN truyền bảo cho những bài của QUỶ CỐC tiên sinh chú giải binh pháp TÔN TỬ, TẪN khẳng khái nhận lời. QUYÊN đưa thẻ tre nhờ TẪN viết ra.
TẪN viết 10 phần chưa được 1,QUYÊN sai 1 người hầu là THÀNH NHI ở hầu hạ bên cạnh TẪN. Tên này thấy TẪN vô tội bị oan có ý thương xót.
1 hôm bỗng QUYÊN cho gọi nó đến hỏi TẪN mỗi ngày viết được mấy bản, nó nói vì TẪN bị chặt chân, ngồi rất khó khăn,nên mỗi ngày chỉ viết được 2-3 bản.QUYÊN nổi giận nói rằng :
_Viết chậm thế thì biết bao giờ cho xong, mày phải thúc giục luôn cho ta.
THÀNH NHI lui ra hỏi tên hầu cận BÀNG QUYÊN rằng :
_Quân sư nhờ TÔN TẪN viết, sao thúc giục như thế?
Tên hầu cận nói :
_Mày không biết , quân sư đối với TÔN TẪN bề ngoài thì làm ra thương xót nhưng trong lòng thực ghen ghét, sở dĩ còn giữ toàn tính mệnh cho TÔN TẪN là vì muốn TÔN quân truyền bảo binh thư cho, chờ khi viết xong, sẽ không cho ăn uống nữa để TÔN quân phải chết đói, đó là việc kín, mày chớ nên tiết lộ.
THÀNH NHI biết thế, về mật báo cho TÔN TẪN biết, TẪN cả sợ, nghĩ thầm : BÀNG QUYÊN đã bất nghĩa như thế, há có nên truyền bảo cho binh pháp? Lại nghĩ đến mình không chịu viết, tất nó sẽ nổi giận giết ngay.
Nghĩ mãi muốn cầu kế thoát thân,sực nhớ khi ra đi QUỶ CỐC tiên sinh có trao cho 1 cái cẩm nang, dặn khi nào nguy cấp quá thì mở ra xem, nay chính là lúc nên mở ra. Bèn mở cái cẩm nang ra xem, đó là 1 bức lụa vàng, ở trong đó viết 3 chữ : Cách giả điên. TẪN nghĩ bụng : Hóa ra là như vậy.
Buổi chiều hôm ấy, khi mâm cơm mới bưng lên, TẪN cầm đũa chực ăn, bỗng làm ra dáng mê man và nôn ọe hồi lâu rồi nổi giận, giương mắt hét to lên rằng:
_Mày sao dùng thuốc độc hại ta?
Rồi vứt chai lọ xuống đất, lấy những thẻ gỗ đã viết rồi ném vào lửa đốt bỏ, miệng cứ lảm nhảm chửi mắng mãi không thôi.
THÀNH NHI không biết TÔN TẪN giả cách, vội đi báo BÀNG QUYÊN.
Ngày hôm sau QUYÊN đến xem, thấy TẪN đờm dãi đầy mặt, phục xuống đất cười khà khà, bỗng lại khóc òa lên. QUYÊN hỏi :
_Đại huynh làm sao mà cười , làm sao mà khóc như thế?
TẪN nói :
Ta cười là cười vua NGỤY muốn hại mệnh ta, ta có 10 vạn thiên binh giúp sức,làm gì được ta !Ta khóc là khóc cho nước NGỤY không có TÔN TẪN không có ai làm đại tướng !
Nói rồi giương mắt nhìn QUYÊN, rồi cứ dập đầu mà lạy hoài, miệng nói xin QUỶ CỐC tiên sinh cứu mạng. QUYÊN nói :
_Tôi là BÀNG QUYÊN đây đại huynh chớ nhận lầm !
TẪN cứ nắm chặt lấy áo QUYÊN không chịu buông, miệng cứ kêu tiên sinh cứu mệnh. QUYÊN sai người giằng ra , hỏi THÀNH NHI :
_TÔN tử phát bênh bao lâu rồi?
THÀNH NHI nói phát tự ban đêm. QUYÊN lên xe về phủ, trong lòng nghi hoặc, sợ TÔN TẪN giả cách điên, muốn thử xem thật giả, bèn sai người đặt vào trong chuồng lợn, đầy dẫy những phân, TẪN xỏa tóc úp mặt mà nằm sấp xuống. QUYÊN lại sai người mang cơm rượu đến nói dối rằng :
_Tôi thương tiên sinh bị chặt chân gọi là tỏ lòng kính mến, nguyên súy không biết đâu .
TẪN biết mưu gian của QUYÊN , trợn mắt mắng rằng :
_ Mày lại đem thuốc độc hại ta à ?
Nói rồi đổ rượu vất cơm xuống đất, tên kia lại nhặt đống cơm cho chó ăn, và lấy phân chó và cục bùn đưa cho, TẪN cầm lấy ăn ngay .
Tên kia về báo QUYÊN, QUYÊN chắc là TẪN điên rồ thật, không lấy làm lo, từ đó thả lỏng TÔN TẪN , mặc cho ra vào .
TẪN hoặc sớm đi chiều về lại cứ nằm ở chuồng lợn, hoặc đi mà không về, nằm đất nằm cát ở đường chợ ; hoặc cười nói hoặc kêu khóc . Nhiều người biết TÔN là khách khanh, thương hại TẪN bị tàn phế đều cho ăn uống . TẪN hoặc ăn hoặc không ăn, nói lảm nhảm luôn mồm, không ai biết là TẪN giả cách điên cả.
Tuy vậy, BÀNG QUYÊN vẩn còn lấy làm lo , hạ lệnh cho địa phương cứ mỗi sáng phải đến trình báo xem TẪN ở đâu .
Bấy giờ, MẶC ĐỊCH sang chơi nước Tề ở nhà ĐIỀN KỴ . Có người học trò là CẦM HOẠT mới ở nước Ngụy đến . MẶC ĐỊCH hỏi thăm TÔN TẪN ở nước Ngụy có đắc ý hay không .
CẦM HOẠT đem việc TÔN TẪN bị chặt chân thuật lại cho MẶC ĐỊCH nghe. MẶC ĐỊCH nói :
_ Ta vốn muốn tiến cử hắn, ngờ đâu thành ra hại hắn.
MẶC ĐỊCH bèn đem tài học của TÔN TẪN và việc BÀNG QUYÊN ghen ghét nói với ĐIỀN KỴ . ĐIỀN KỴ vào tâu ngay với Uy Vương xin đem quân đón TÔN TẪN về nước. ĐIỀN KỴ nói :
_BÀNG QUYÊN đã không muốn cho TẪN làm quan ở nước Ngụy thì khi nào lại muốn cho TẪN làm quan ở nước Tề . Muốn đón phải như thế, như thế...mới được.
Uy Vương bèn sai THUẦN VU KHÔN mượn tiếng sang Ngụy dâng trà, CẦM HOẠT giả làm người hầu đi theo. Sang đến ngụy, THUẦN VU KHÔN vào chầu Huệ vương rồi ra ở ngoài nhà trạm.
CẦM HOẠT thấy TẪN điên, không cùng nói chuyện, nửa đêm mới lén đến thăm. TẪN dựa lưng vào thành giếng mà ngồi. Thấy HOẠT chỉ giương mắt nhìn mà không nói. CẦM HOẠT ứa nước mắt nói rằng :
_TÔN TẪN khổ đến thế ư? Có biết CẦM HOẠT này không? Thầy tôi có kể nỗi oan cho Vua Tề, Vua Tề rất thương mến, nay sai ông THUẦN VU đến đây, không phải vì việc dâng trà mà thực là muốn đem TÔN khanh về Tề báo cái thù chặt chân đó thôi.
TÔN TẪN chảy nước mắt như mưa, hồi lâu mới nói rằng :
_ Tôi vẫn chắc chết rấp ở ngoài rãnh, không ngờ ngày nay lại có cơ hội này. Nhưng BÀNg QUYÊN vẫn ngờ vực lắm, khơng thể đem tôi đi lọt đâu.
CẦM HOẠT nói :
_ tôi đã có kế rồi, TÔN khanh không phải quá lo, chờ khi nào tôi đi, tôi sẽ đến đón nhưng xin cứ gặp nhau ở đây, chớ dời đi nơi khác.
Hôm sau, Huệ Vương khoản đãi THẦN VU KHÔN , biết KHÔN là người biện luận giỏi, nên tặng vàng lụa rất nhiều , KHÔN từ tạ Huệ Vương chực đi, BÀNG QUYÊN lại đặt rượu ở Trường Đình để tiễn hành
Đêm trước, CẦM HOẠT đã đem TÔN TẪN giấu trong 1 cái xe phủ kín, đem quần áo của TẪN mặc cho đầy tớ là VƯƠNG NGHĨA mặc, bù đầu xỏa tóc, lấy bùn đất bôi vào mặt giả làm TÔN TẪN, địa phương cứ thế mà báo, nên BÀNG QUYÊN không ngờ.
THUẦN VU KHÔN từ biệt BÀNG QUYÊN , bảo CẦM HOẠT cho xe đi trước và giục đi cho thật nhanh,
còn mình thì đi áp hậu.
Mấy ngày sau VƯƠNG NGHĨA cũng tìm được sách thoát thân, chạy theo.
Quan địa phương thấy những quần áo bẩn thỉu quăng bỏ trên mặt đất, không thấy TÔN TẪN đâu, liền đi báo BÀNG QUYÊN, QUYÊN nghi là TẪN nhảy xuống giếng tự tử, sai người mò vớt không thấy, lại cho đi dò hỏi khắp nơi cũng không thấy tung tích TẪN đâu, nhưng sợ Ngụy Vương trách hỏi, bèn tâu TÔN TẪN chết đuối , cũng không ngờ TÔN TẪn đã về nước Tề rồi.
Sau này TÔN TẪN làm tướng quốc nước Tề, đã phục binh giết BÀNG QUYÊN tại Mã Lăng.
THÍ DỤ B : CON NGỰA HÈN THAM NẮM ĐẬU
Thí dụ : B _ Con ngựa hèn tham nắm đậu
TƯ MÃ Ý, TÀO SẢNG phò thái tử TÀO PHƯƠNG lên ngôi hoàng đế. TÀO PHƯƠNG tự là LAN KHANH , nguyên là con nuôi TÀO TUẤN , chuyện bí mật ở trong cung , không ai biết do đâu mà đến.
TÀO PHƯƠNG lên ngôi, tôn tên thụy cha là MINH ĐẾ , táng ở Cao Bình; tôn QUÁCH hoàng hậu làm thái hậu;đổi niên hiệu là Chính thủy. SẢNG rất trọng vọng TƯ MÃ Ý , phàm việc gì to đều hỏi Ý trước.
SẢNG tên tự là BÁ CHIÊU , tự thuở nhỏ ra vào trong cung. MINH ĐẾ thấy người cẩn thận, đem lòng yêu mến lắm.SẢNG có 500 khách môn hạ ; trong đó có 5 người ưa chuộng thói phù hoa là HÀ YẾN, ĐẶNG DƯƠNG, LÝ THẮNG,ĐINH BẬT, TẤT PHẠM.
Lại có quan đại tư nông là HOÀN PHẠM, tự NGUYÊN TẮC , có nhiều mưu trí, người ta khen là trí nang ( túi khôn ). Mấy người ấy đều được TÀO SẢNG tin dùng.
HÀ YẾN nói với TÀO SẢNG rằng :
_ Đại quyền của chủ công, chớ cho người khác được can thiệp đến mà để lo về sau.
SẢNG nói :
_Tư Mã công cùng với ta chịu lời tiên đế thác cô, nỡ nào ta bỏ nghĩa ấy.
YẾN nói :
_ khi xưa tiên công cùng với TRỌNG ĐẠT đánh THỤC , nhiều khi bị hắn lấn át, nhân thế mà chết. Chủ công sao không xét việc đó?
SẢNG nghĩ ra, cùng với các quan thương nghị, rồi vào tâu với Ngụy Chủ rằng :
TƯ MÃ Ý công cao đức nặng, nên gia chức làm Thái Phó.
PHƯƠNG nghe lời.Từ đó binh quyền về cả tay TÀO SẢNG. SẢNG sai em là TÀO HI làm
Trung lĩnh quân, TÀO HUẤN làm Võ vệ tướng quân, TÀO NGẠN làm Tản kỵ thường thị. Mỗi người 3000 ngự lâm quân, tùy tiện ra vào chốn cung cấm. Lại dùng HÀ YẾN, ĐẶNG DƯƠNG,ĐINH BẬT làm thượng thư, TẤT PHẠM làm Tư lệ hiệu úy, LÝ THẮNG làm Hà Nam doãn. Năm người ấy ngày đêm bàn việc với TÀO SẢNG. Bởi thế tân khách nhà TÀO SẢNG mỗi ngày một nhiều.
TƯ MÃ Ý thấy vậy, thác có bệnh không ra đến ngoài. Hai con cũng từ chức về nhà.
TÀO SẢNG mỗi ngày cùng với bọn HÀ YẾN uống rượu làm vui. Phàm các đồ dùng , áo sống, không khác gì của triều đình. những đồ quý báu các nơi tiến cống, trước hết chọn đồ quý nhất lấy làm của riêng, còn thừa mới nồp vào cung.
Trong phủ chứa rất nhiều con gái đẹp. Quan hoàng môn là TRƯƠNG ĐƯƠNG xiểm nịnh TÀO SẢNG , kén lấy 18 nàng hầu của Tiên Đế , đưa vào trong phủ. SẢNG lại kén ba bốn chục con gái nhà tử tế, biết hát múa lập ra 1 đội nữ nhạc trong phủ. Lại dựng lên lầu cao gác chạm ; đúc các đồ vàng bạc ; dùng hơn 100 thợ khéo , ngày đêm chế tạo đồ dùng.
TÀO SẢNG thường hay cùng với bọn HÀ YẾN , ĐẶNG DƯƠNG ra ngoài săn bắn. Em là TÀO HI can rằng :
- Uy quyền của anh to lắm, mà cứ hay đi chơi săn bắn, nếu có người mưu hại thì làm thế nào ?
SẢNG mắng rằng :
_ Binh quyền ở trong tay ta, còn sợ gì ai nữa?
Tư nông là HOÀN PHẠM cũng can , nhưng SẢNG cũng không nghe.
Bấy giờ Ngụy chủ TÀO PHƯƠNG đổi năm Chính Thủy thứ 10 là năm Gia Bình thứ nhất. TÀO SẢNG 1 mực chuyên quyền. không biết bệnh TRỌNG ĐẠT hư thực ra làm sao.
Bữa ấy, nhân Ngụy Chủ cho LÝ THẮNG ra làm Thứ sử ở Kinh Châu. SẢNG cho LÝ THẮNG đến từ TRỌNG ĐẠT , nhân để dò xem ý tứ thế nào. LÝ THẮNG đến phủ Thái Phó, có lính canh cửa vào báo với TƯ MÃ Ý. Ý bảo với 2 con rằng :
_ Đây là TÀO SẢNG sai đến dò xem bệnh ta thực hay giả đây.
Lập tức bỏ mũ, để tóc rũ rượi, trèo lên giường ngồi dựa vào cái chăn và sai 2 nàng hầu nâng đỡ ; rồi mới sai mời LÝ THẮNG vào phủ.
LÝ THẮNG đến trước giường , lạy nói rằng :
_ Lâu nay không được hầu Thái Phó, không ngờ ngài yếu đau thế này ! Nay thiên tử sai tôi làm thứ sử Kinh Châu, xin đến đây kạy từ Thái Phó.
Ý giả điếc , đáp rằng :
_ Tinh châu gần phương bắc, ra đó giữ gìn cho khéo.
THẮNG nói :
_ Tôi được cử làm Thứ sử Kinh Châu, không phải Tinh Châu.
Ý cười nói :
_ Ngươi ở Tinh Châu lại à?
THẮNG nói :
_ Kinh Châu ở Hán Thượng.
Ý lại cười ha hả mà rằng :
_ Ngươi ở Kinh Châu lại đây à?
THẮNG nói :
_Thái Phó sao ngài yếu đến thế?
Tả hữu nói :
_ Thái Phó điếc đấy !
THẮNG mượn bút giấy viết mấy chữ đệ lên.
Ý xem xong cười rằng :
_ Ta lâu nay mệt lắm , tai điếc nghe không rõ. Chuyến này có đi thì phải giữ gìn !
Nói đoạn , lấy tay trỏ vào mồm , ra hiệu muốn uống nước. Thị tỳ dâng chén nước nóng. Ý hớp miệng vào chén nước , nước đổ ra ướt cả vạt áo. Ý ậm ự trong cổ, làm ra tiếng nghẹn, rồi nói rằng :
_ Ta suy nhược lắm , sớm tối chưa biết chết lúc nào. Ta có 2 con chẳng ra gì, nhờ người dạy bảo đỡ cho ta. Ngươi có về ra mắt đại tướng quân, nhờ nói giùm với tướng quân trông nom đỡ 2 con cho ta, thì may lắm.
Nói đoạn, nằm lăn ra bên giường, thở hồng hộc 1 lúc.
LÝ THẮNG cáo từ TRỌNG ĐẠT , về ra mắt TÀO SẢNG , thuật hết cả tình hình như thế
SẢNG mừng, nói :
_ Lão này chết thì ta không lo gì nữa !
TƯ MÃ Ý thấy LÝ THẮNG đi rồi, đứng dậy bảo với 2 con rằng :
_ LÝ THẮNG chuyến này về báo tin , TÀO SẢNG tất không nghi ta nữa ; đợi khi nào y ra thành săn bắn, thì mới thực hiện ý đồ được.
Không mấy bữa. TÀO SẢNG mời Ngụy Chủ TÀO PHƯƠNG ra yết lăng Cao Bình , tế tự Tiên Đế . Quan viên lớn nhỏ theo cả ra.
SẢNG dẫn 3 anh em và bọn tâm phúc HÀ YẾN cùng quân ngự lâm, hộ giá ra thành.
Tư nông là HOÀN PHẠM can rằng :
_ Chủ công coi giữ quân cấm binh, không nên anh em cùng đi cả ; phỏng trong thành có biến , thì làm thế nào?
SẢNG cầm roi ngựa quật vào HOÀN PHẠM , mắng rằng :
_ Ai dám làm loạn , chớ có nói càn !
* * * * * * * *
Đây nói TƯ MÃ Ý , nghe tin TÀO SẢNG dẫn 3 anh em và bọn tâm phúc , cúng quân ngự lâm theo cả Ngụy Chủ ra thành , yết lăng vua Minh Đế , nhân thể đi săn. Ý mừng lắm, lập tức vào nơi công đường, sai Tư Đồ là CAO NHƯ lĩnh chức đại tướng quân , trước hết đến giữ dinh TÀO SẢNG. Lại sai Thái Bộc là VƯƠNG QUAN , quyền chức trung lĩnh quân, giữ dinh TÀO HI.
Ý dẫn các quan vào hậu cung tâu với Quách thái hậu việc TÀO SẢNG bỏ lời tiên đế thác cô, gian tà loạn nước , xin trị tội.
Quách thái hậu thất kinh , nói :
_ thiên tử ra ngoài chưa về, thì làm thế nào?
Ý tâu rằng :
_ Tôi đã dâng biểu tâu với thiên tử, có mẹo giết được gian thần, thái hậu chớ ngại.
Thái hậu sợ hãi, phải theo lời. Ý sai Thái Úy là TƯỞNG TẾ , thượng thư lệnh là TƯ MÃ PHU cùng với mình viết biểu, phái hoàng môn mang ra ngoài thành tâu với Ngụy Chủ. Ý tự dẫn đại quân giữ kho khí giới.
HOÀN PHẠM được xem như là mưu sĩ , túi khôn của TÀO SẢNG , nghe có biến tìm cách chạy ra cửa thành. Có người bảo với TƯ MÃ Ý. Ý giật mình nói :
_ Túi khôn lọt ra mất rồi thì làm thế nào?
TƯỞNG TẾ nói :
_ Ngựa hèn tham nắm đậu trong chuồng , dù có túi khôn, cũng không dùng được.
Ý gọi HỨA DOÃN, TRẦN THÁI đến bảo rằng :
_ Hai ngươi ra gặp TÀO SẢNG , nói Thái Phó không có bụng nào hại đâu, chỉ muốn tước bớt binh quyền của anh em họ đấy thôi.
HỨA , TRẦN 2 người đi liền.
Lại đòi quan Điện trung hiệu úy là DOÃN ĐẠI MỤC đến, sai TƯỞNG TẾ viết thư, cho ĐẠI MỤC cầm ra đưa cho TÀO SẢNG. Ý dặn rằng :
_ Ngươi thân thiết với TÀO SẢNG , nên giúp việc này. Ngươi có ra mắt TÀO SẢNG , thì nói rằng ta với TƯỞNG TẾ trỏ sông Lạc Thủy ăn thề, chỉ vì việc binh quyền, chớ không có bụng nào cả.
DOÃN ĐẠI MỤC vâng lệnh đi ra.
* * * * * * * *
Nói về TÀO SẢNG đang mãi săn bắn, huýt chó thả chim. Chợt có tin báo trong thành nổi loạn, Thái phó có biểu văn đưa đến.SẢNG giật nảy mình, suýt nữa ngã ngựa. Quan hoàng môn dâng biểu quỳ trước mặt thiên tử. SẢNG tiếp lấy tờ biểu mở ra, sai cận thần d0oc5 lên vua nghe.
Biểu rằng :
Chinh Tây đại tướng quân thái phó thần là TƯ MÃ Ý, rất sợ hãi, cúi đầu kính dâng biểu lên bệ hạ : Thần tự khi đánh liêu Đông trở về, tiên đế giao phó bệ hạ cho Tần Vương và bọn thần, bên giường ngự, cầm tay thần, gắn bó dặn dò việc sau. Nay đại tướng quân TÀO SẢNG bỏ lời cố mệnh, loạn phép nhà nước, trong thì tiếm pháp, ngoài thì chuyên quyền , dung hoàng môn là TRƯƠNG ĐƯƠNG làm đô giám, cùng nhau tư thông, để ngấp nghé ngôi báu,làm cho lìa cách 2 cung,tàn hại trong tình cốt nhục. Thiên hạ nôn nao, mang lòng sợ hãi. Đó không phải là ý của tiên đế bảo bệ hạ và dặn thần như thế. Thần tuy già yếu, dám đâu quên lời xưa. Thái úy thần là TẾ, thượng thư thần là PHU cũng nghĩ rằng TÀO SẢNG không có bụng tôn vua, không nên cho anh em y được giữ binh quyền túc vệ trong cung nữa. Vì thế , thần tâu với hoàng thái hậu, thái hậu sai thần tấu biểu với bệ hạ để ra lệnh. Vậy thần dâng biểu này, xin bắt SẢNg , HI , HUẤN phải bãi binh đi mà về nhà, không được để xa giá bệ hạ ở lâu ngoài thành. Nếu chậm trễ, xin án quân pháp mà trị tội. Thần phải gượng bệnh đem quân ra đóng trên cầu Lạc Thủy, để coi xét việc bất thường. Vì vậy bày tỏ, xin được soi xét.
Ngụy Chủ TÀO PHƯƠNG nghe xong,bảo với TÀO SẢNG rằng :
_ Thái phó nói vậy , ngươi khu xử làm sao?
TÀO SẢNG cuống cả người lại, bảo với 2 anh em rằng :
_ Lam thế nào bây giờ?
HI nói :
_ Em đã can mãi anh,anh chẳng nghe cho, mới đến nỗi này. TƯ MÃ Ý quỷ quyệt vô cùng, KHỔNG MINH còn không đánh nổi, huống chi anh em chúng ta ! Chi bằng tự trói mình về chịu lỗi, cầu khỏi cái chết là hơn !
Một lát, tham quân TÂN TỆ, TƯ MÃ LỖ CHI đến. SẢNG hỏi chuyện. Hai người nói :
_ Trong thành vây kín như rào sắt, thái phó đem quân đóng trên cầu sông Lạc, không tài nào mà về được đâu. Nên định kế lớn đi !
Đang nói thì tư nông là HOÀN PHẠM tế ngựa chạy đến. PHẠM nói :
_ Thái phó đã khởi biến rồi , tướng quân sao không rước thiên tử ra Hứa Đô, cất quân ngoài mà đánh TƯ MÃ Ý ?
SẢNG nói :
_ Cả nhà ta ở trong thành , sao nên đi nơi khác mà cầu cứu?
PHẠM nói :
_ Thất phu đương lúc nạn, còn muốn cầu sống. Nay chủ công theo với thiên tử, hiệu lệnh thiên hạ, đâu chẳng phải nghe , sao lại đâm đầu về đất chết làm chi?
SẢNG nghe nói phân vân chưa quyết, chỉ ứa nước mắt khóc.
PHẠM lại nói :
_ Tự đây ra Hứa Đô , chẳng qua nửa đêm thì đến nơi. Lương thảo trong thành, đủ chi được vài năm. Vả lại quân mã trại riêng của chủ công, ở ngay Quan Nam gần đây, gọi 1 tiếng là đến. Ấn đại tư mã tôi đã mang ra đây, chụ công nên làm cho kịp đi, nếu chậm thì việc hỏng mất.
SẢNG nói :
_ các ngươi chớ thôi thúc lắm, để ta nghĩ kỹ xem đã !
Được 1 lát , thị trung HỨA DOÃN , thượng thư lệnh TRẦN THÁI đến. Hai người nói :
_ Thái phó chỉ vì việc tướng quân quyền to quá, muốn tước bớt binh quyền đi, chớ không có bụng gì đâu. Tướng quân nên về ngay trong thành cho sớm.
SẢNG nín lặng chẳng nói gì , 1 lát , lại có DOÃN ĐẠI MỤC đến nói :
_ Thái phó trỏ sông Lạc phát lời thề, tịnh không có bụng nào. Có thư của TƯỞNG thái úy ở đây. tướng quân nên bỏ binh quyền, về ngay tướng phủ cho.
SẢNG tin là thực.
HOÀN PHẠM lại nói ;
_ Việc đã cấp rồi, chớ nghe người ta nói mà đâm vào đất chết !
Đêm hôm ấy, TÀO SẢNG vẫn không quyết bề nào, tay cầm thanh gươm thở ngắn thở dài cho đến sáng, lúc nào cũng nước mắt chảy vòng quanh mà vẫn hồ nghi không biết nghĩ ra sao.
HOÀN PHẠM vào trướng giục rằng :
_ Chủ công nghĩ suốt cả đêm, mà vẫn chưa quyết ư?
SẢNG vất thanh gươm xuống than rằng :
_ Bụng ta không muốn cất quân, ta tình nguyện bỏ quân, chỉ làm 1 tên phú ông là đủ.
PHẠM khóc ầm lên, ra trướng nói :
_ TÀO TỬ ĐAN khoe mình trí mưu, nay được 3 con đụt như chó lợn cả.
HỨA DOÃN, TRẦN THÁI xui SẢNG nộp ấn thụ trước cho TƯ MÃ Ý. SẢNG sai đem ấn thụ đưa ra. Chủ bộ là DƯƠNG TỐNG giằng lại ấn thụ, khóc rằng :
_ Hôm nay chủ công bỏ binh quyền, tự trói xin hàng, không tránh khỏi chết ở chợ cửa đông đâu.
SẢNG nói :
_ Thái phó tất không thất tín với ta !
Bởi thế, TÀO SẢNG đem ấn thụ đưa cho HỨA, TRẦN 2 người mang về trước, giao nộp TƯ MÃ Ý. Quân sĩ thấy không có tướng ấn, lẻ tẻ tan mất cả. Thủ hạ TÀO SẢNG chỉ còn mấy người, đi theo về đến Phù kiều.
TƯ MÃ Ý cho 3 anh em TÀO SẢNG hãy về nhà riêng, còn các quan đi theo thì tống giam chờ sắc chỉ.
Anh em TÀO SẢNG khi vào đến thành,không còn 1 người nào theo hầu.
HOÀN PHẠM về đến cầu, TƯ MÃ Ý ngồi trên ngựa trỏ roi mà rằng :
_ HOÀN đại phu cớ sao lại thế?
HOÀN PHẠM cúi mặt xuống không nói gi, rồi đi vào thành.
TƯ MÃ Ý rước xa giá nhổ trại về Lạc Dương.Ba anh em TÀO SẢNG về đến nhà, TƯ MÃ Ý dùng khóa to khóa cửa lại, sai 800 dân phu vây giữ.
TÀO SẢNG trong bụng lo buồn. Hi nói :
_ Trong nhà ta thiếu lương ăn, anh thử viết thư đưa cho Thái phó vay lương. Nếu y đem đỡ cho ta, thì tất không nỡ hại nhau.
SẢNG liền viết thư sai người cầm đến. TƯ MÃ Ý xem thư, cho người vận 100 hộc lương vào phủ TÀO SẢNG.
SẢNG mừng nói :
_TƯ MÃ CÔNG hẳn không bụng nào nỡ hại ta !
Từ đó khôpng lo gì nữa.
TƯ MÃ Ý trước hết bắt TRƯƠNG ĐƯƠNG tống ngục tra hỏi. ĐƯƠNG xưng ra bọn HÀ YẾN,ĐẶNG DƯƠNG, LÝ THẮNG , TẤT PHẠM, ĐINH BẬT năm người đồng mưu phản nghịch. Ý lấy khẩu cung , rồi sai bắt bọn HÀ YẾN tra hỏi minh bạch , cả bọn cùng xưng là trong 3 tháng nữa thì làm phản. Ý sai đòng gông ráo cả lại.
Tướng giữ cửa thành là TƯ PHIÊN tố cáo HOÀN PHẠM trá xưng phụng chiếu ra thành, nói là thái phó làm phản.
Ý nói :
_ Vu cho người làm phản , tội cũng như làm phản.
Liền sai bắt cả bọn HOÀN PHẠM bỏ ngục. Rồi bắt 3 anh em TÀO SẢNG và các người phạm tội, cùng cả 3 họ điệu ra ngoài chợ chém sạch. Bao nhiêu của cải tịch thu bỏ kho làm của công.
LẠM BÀN :
1/. ngay cả KHỔNG MINH cũng kiêng mặt TƯ MÃ Ý , rõ ràng TÀO SẢNG không phải là đối thủ của Ý
2/. TÀO SẢNG danh vọng đã lên đến cực điểm : Nắm hết binh quyền , cao sang , xa hoa...chủ quan không hiểu được âm mưu TƯ MÃ Ý , thiếu phòng bị, lại còn cao hứng kéo
quân ra khỏi hang ổ để săn bắn.
Khi gặp nguy biến,nhu nhược sợ chết,không nghe lời mưu sĩ, thiếu quyết đoán.
Đúng như lời TƯỞNG TẾ : Con ngựa hèn tham nắm đậu trong chuồng, có túi khôn cũng không dùng được.
khi đắc thế khoác lác la mắng cấp dưới, tiền hô hậu ủng, lúc thất bại run rẩy khóc lóc, bọn tay chân thuộc hạ lãng ra. Chịu nhục xin gạo ăn để cầu sống, ảo tưởng kẻ thù sẽ tha mạng nhưng kết cuc cũng bị chém giửa chợ.
3/.Ngoạn mục là TƯ MÃ Ý cáo quan, giả bệnh,giả nghễnh ngãng, yếu đuối như sắp chết, còn trối trăn...nhưng khi có cơ hội thì sáng suốt sắp đặt đâu vào đấy, cướp lại được binh quyền địa vị.
Thủ đoạn chính trị thật ghê gớm. 1 màn kịch giả bệnh, giả sắp chết, thay đổi, khuynh đảo cả 1 thế lực của 1 triều đình.
4/. Đáng buồn là HOÀN PHẠM được gọi là túi khôn chẳng khôn chút nào, khi biết SẢNG đụt như chó lợn thì quá muộn.
5/. Quỷ Cốc còn cho rằng âm thì thối tàng, không hành động. Lẽ thường thì Âm cực điểm sẽ
chuyển hóa thành Dương, đó là thời cơ nhanh chóng hành động.
6/. Bàn về kế này người ta cho rằng bắt chước 1 loài cá gọi là mê ngư, cá sống trong bùn.Khi mặt nước có biến động rúc nhanh xuống bùn bất động; nhịn ăn hàng năm, sáu tháng ; người ta không phát hiện được nên nó sống sót va sống rất lâu.
4/.TIÊN ĐẢ HẬU MA : Trước đánh sau bắt
4/.TIÊN ĐẢ HẬU MA : Trước đánh sau bắt
Tiên đả hậu ma là trước đánh sau bắt. ví như muốn bắt cá , trước là khuấy lên cho đục nước làm cho cá mất phương hướng, sau đó là mò bắt cá.
Dựa vào nguyên lý Âm Dương, đóng mở để quan sát, thẩm định ; đo lường lực lượng, khả năng ; kỹ năng, kỹ xảo ; sở trường, sở đoản của đối phương.
Muốn đánh bại 1 đạo quân thì làm cho đạo quân ấy mệt mõi, tiêu tan ý chí sau đó mới tiến quân.
Muốn thôn tính 1 nước thì phải làm cho nước đó rối loạn, vua không phân biệt được phải trái,chính tà,trung nịnh,quần thần và nhân dân mất niềm tin.
Muốn cho 1 nước thần phục mình phải cắt đứt chỗ dựa của nước đó.
Ví dụ A : DIỆT MẦM SỰ TRÁO TRỞ
Nước TRỊNH khi theo SỞ lúc theo TẤN, lúc theo SỞ . TẤN ĐIỆU CÔNG giận lắm, hỏi các quan đại phu rằng :
_ Người nước TRỊNH phản phúc, quân ta đến thì theo, quân ta về lại phản, nay muốn cho người nước TRỊNH 1 lòng theo ta thì nên dùng kế gì ?
TUÂN DINH hiến kế rằng :
_ Nước TẤN ta không thu phục được nước TRỊNh là vì người nước SỞ cố sức mà tranh nước TRỊNh với ta.
Nay muốn thu phục được nước TRỊNH thì tất phải đối địch với SỞ , mà muốn làm cho SỞ khốn đốn thì nên tìm kế dĩ dật đãi lao,lấy khoẻ mà đánh mỏi mệt.
TẤN ĐIỆU CÔNG nói :
_ Thế nào là dĩ dật đãi lao ?
TUÂN DINH nói :
_ Quân nước mình không nên dùng luôn , dùng luôn thì người mình nhọc ; quân chư hầu không nên điều động luôn , điều động luôn thì chư hầu oán. Trong nhọc mà ngoài oán , cứ như thế thì không bao giờ thắng được SỞ.
Tôi xin đem quân ta chia ra làm 3 đạo , mỗi đạo quân có mấy nước chư hầu phụ thuộc vào , thay đổi nhau mà đối địch với quân SỞ , SỞ tiến thì ta lui , SỞ lui thì ta tiến , đem 1 đạo quân của nước ta mà làm cho cả nước SỞ không lúc nảo được yên , như thế thì nước SỞ khốn quẩn , bấy giờ nước TRỊNH tất phải 1 lòng theo ta.
Khi xuất quân TUÂN DINH truyền lệnh rằng :
_ Ba đạo quân cứ thay phiên nhau đánh TRỊNH , hễ TRỊNH chịu giảng hòa thì lại rút về ngay , nhất thiết không được giao chiến với quân SỞ.
Quả nhiên sau này , TRỊNH không dám phản bội nước TẤN.
LẠM BÀN :
1/. Sở dĩ nước TRỊNH tại sao sớm đầu tối đánh là do nước SỞ ủng hộ,lôi kéo.SỞ là chỗ dựa của TRỊNH , SỞ biến loạn thì không bảo vệ được TRỊNH , buộc TRỊNh phải cầu hòa với TẤN.
2/. Trước đánh SỞ ( tiên đả ) làm cho nước SỞ mỏi mệt. Sau mới bắt ( hậu ma ) TRỊNH chui vào rọ cầu hòa.
3/. Kế này còn có tên gọi khác là dĩ dật đãi lao ,lấy sự nghĩ ngơi, khoẻ mạnh đánh người mỏi mệt. Làm tiêu hao nhuệ khí , sức lực của đối phương , đợi đối phương tinh thần sa sút , rối loạn thì tiến đánh.
Với kế này , thời Đông Tấn, TẠ HUYỀN _ tướng nước Tấn _ đã đánh tan tác 90 vạn quân của BỐ KIÊN_tướng nước TẦN _ tại sông Phì Thủy.
Ví dụ B : TIÊU TAN DŨNG KHÍ
TRANG CÔNG và TÀO QUỆ đi trên 1 chiếc binh xa ra trận đánh nhau với quân Tề tại Trường Thược.
TRANG CÔNG chuẩn bị đánh trống trận ra lệnh công kích ,TÀO QUỆ nói :
_ Chưa đến lúc , chưa được hạ lệnh xuất kích .
Quân Tề đánh 3 lần trống trận , TÀO QUỆ nói :
_ Có thể đánh trống trận và phát lệnh công kích rồi !
Quân Tề thua trận tan rã , TRANG CÔNG chuẩn bị truy kích , TÀO QUỆ nói :
_ Chậm 1 chút.
TÀO QUỆ xuống xe kiểm tra dấu vết binh xa của quân Tề , leo lên thành xe nhìn ra nơi xa xa , rồi nói rằng :
_ Được rồi !
Thế là TRANG CÔNG hạ lệnh truy kích quân Tề.
LỜI BÀN CỦA TÀO QUỆ :
Sau khi đánh thắng trận. TRANG CÔNG hỏi TÀO QUỆ vì sao làm như vậy , TÀO QUỆ trả lời :
_Về việc đánh nhau cần phải có dũng khí . Lần thứ nhất đánh trống trận
để lấy dũng khí quân đội . Đánh trống trận lần thứ hai thì dũng khí đang hăng sẽ tàn lụi dần . Đến lần trống trận thứ ba thì dũng khí quân đội sẽ mất hết. Dũng
khí của quân Tề xuống hết, trái lại, dũng khí của quân ta tràn đầy cho nên chúng
ta đánh bại được quân Tề . Nước lớn là khó dự liệu ; e rằng họ giả vờ tháo chạy
rồi nằm lại mai phục . Tôi xuống xe xem thấy vết xe của quân Tề rất lộn xộn , leo lên cao thấy quân kỳ của họ cái nằm ngang cái nằm dọc, nên tôi phán đoán rằng không phải quân Tề giả bộ tháo chạy để dụ chúng ta, nên mới bắt đầu hạ lệnh truy đuổi chúng.