Tại hội thảo “Cập nhật thông tin chế độ kế toán doanh nghiệp” do Bộ Tài chính và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) tổ chức ngày 21-4, Chủ tịch Hội đồng tư vấn quản trị Công ty HNX Vũ Thị Kim Liên cho rằng, với quy định mới về chế độ kế toán doanh nghiệp (DN) hiện nay đã rút ngắn khoảng cách giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam với chuẩn mực kế toán quốc tế.
Nhà đầu tư chứng khoán đòi hỏi các DN niêm yết phải công bố báo cáo tài chính theo hướng minh bạch. Ảnh: Internet.
“Điều này cho thấy chúng ta đã hòa nhập và đang có hướng đi phù hợp với thị trường khu vực ASEAN nói riêng và thị trường quốc tế nói chung. Đồng thời, sự thay đổi này sẽ khiến các DN phải minh bạch về tài chính hơn nữa, quản trị rủi ro tài chính tốt hơn để từ đó, việc quản lý tốt tài sản của doanh nghiệp không chỉ tạo ra lợi nhuận cho riêng DN mà còn đóng góp tích cực cho nền kinh tế của đất nước"- bà Vũ Thị Kim Liên nói.
Đại diện Bộ Tài Chính, Phó Vụ trưởng Vụ Chế độ kế toán, bà Hà Thị Ngọc Hà đã hướng dẫn cho các DN về các điểm thay đổi lớn và các quy định của Thông tư 200/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính thay thế Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20-3-2006 và Thông tư 244/2009/TT-BTC về chế độ kế toán doanh nghiệp.
Theo bà Hà Thị Ngọc Hà, Thông tư 200/2014/TT-BTC được đánh giá là phù hợp với thực tiễn, hiện đại và mang tính khả thi, tôn trọng bản chất hơn hình thức. Thông tư được xây dựng trên nền tảng linh hoạt và mở, lấy mục tiêu đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành ra quyết định kinh tế của doanh nghiệp, phục vụ nhà đầu tư và chủ nợ làm trọng tâm; không kế toán vì mục đích thuế. Bên cạnh đó, các quy định tại thông tư cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, tách biệt kỹ thuật kế toán trên tài khoản và báo cáo tài chính và đặc biệt đề cao trách nhiệm của người hành nghề.
Theo quy định mới của Bộ Tài chính tại Thông tư 200 có 5 điểm thay đổi nổi bật về các vấn đề: Đơn vị tiền tệ để ghi sổ kế toán, tài khoản kế toán, báo cáo tài chính, chứng từ kế toán và sổ kế toán. Các DN được dùng ngoại tệ làm đơn vị tiền tệ để ghi sổ kế toán, các doanh nghiệp có nghiệp vụ thu chi chủ yếu bằng ngoại tệ có thể chọn một loại ngoại tệ làm đơn vị tiền tệ để ghi sổ kế toán. Báo cáo tài chính để công bố ra công chúng và nộp cho các cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam là báo cáo tài chính được trình bày bằng đồng Việt Nam.
Trong hệ thống tài khoản kế toán, bên cạnh việc thêm bớt, thay đổi một số tài khoản kế toán thì điểm đáng lưu ý là các tài khoản tài sản không phân biệt ngắn hạn và dài hạn. Đối với báo cáo tài chính, thông tin bắt buộc trong báo cáo không còn là “thuế và khoản phải nộp Nhà nước”. Kỳ lập báo cáo giữa niên độ sẽ gồm báo cáo tài chính quý (cả quý IV) và bán niên.
Nổi bật hơn cả đó là việc thêm các quy định mới về xây dựng nguyên tắc kế toán và báo cáo tài chính khi doanh nghiệp không đáp ứng giả định hoạt động liên tục. Phần thuyết minh báo cáo tài chính cũng có nhiều sự thay đổi.
Đối với chứng từ kế toán, doanh nghiệp được chủ động xây dựng, thiết kế biểu mẫu chứng từ kế toán nhưng phải đáp ứng được các yêu cầu của Luật Kế toán và đảm bảo rõ ràng, minh bạch. Về sổ sách kế toán, DN được tự xây dựng biểu mẫu sổ kế toán cho riêng mình nhưng phải đảm bảo cung cấp thông tin về giao dịch kinh tế một cách minh bạch và đầy đủ.
Đại diện của Công ty kiểm toán Deloitte ông Vũ Đức Nguyên, Phó Tổng Giám đốc, đã giới thiệu về những điểm khác biệt cơ bản giữa chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) và chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) cùng với việc tổ chức áp dụng triển khai IFRS tại Việt Nam.
Theo ông Vũ Đức Nguyên, có thể thống kê 10 điểm khác biệt cơ bản giữa IFRS và VAS gồm có: Cách thức trình bày báo cáo tài chính; giá trị hợp lý; công cụ tài chính; Suy giảm giá trị tài sản; các vấn đề liên quan tới báo cáo tài chính hợp nhất; Doanh thu; tài sản cố định, bất động sản, thuê, tài sản dài hạn nắm giữ để bán; các khoản chi phí hoãn lại; Thanh toán bằng cổ phiếu và chuẩn mực ngành.
Lộ trình thực hiện chính thức áp dụng IFRS tại Việt Nam sẽ bắt đầu từ năm 2016.
“Các DN, ngân hàng có cổ đông nước ngoài, theo yêu cầu của cổ đông nước ngoài có thể lập báo cáo tài chính IFRS; Các DN vay vốn của các tổ chức tín dụng quốc tế trong điều khoản vay có thể có quy định phải thực hiện báo cáo tài chính theo IFRS; Các DN có vốn đầu tư nước ngoài thường lập báo cáo tài chính chuyển đổi theo IFRS cho mục đích hợp nhất của công ty mẹ; Một số DN phát hành trái phiếu quốc tế hoặc niêm yết ở nước ngoài lập báo cáo tài chính theo IFRS để đảm bảo các thông tin theo yêu cầu của thị trường và nhà đầu tư.”- ông Vũ Đức Nguyên chia sẻ.
Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng IFRS cần có sự quyết tâm và tổ chức thực hiện của lãnh đạo DN bởi IFRS không chỉ quy định về việc lập báo cáo tài chính, quy trình kế toán mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của DN.
Thu Hằng- Báo Hải Quan
“Điều này cho thấy chúng ta đã hòa nhập và đang có hướng đi phù hợp với thị trường khu vực ASEAN nói riêng và thị trường quốc tế nói chung. Đồng thời, sự thay đổi này sẽ khiến các DN phải minh bạch về tài chính hơn nữa, quản trị rủi ro tài chính tốt hơn để từ đó, việc quản lý tốt tài sản của doanh nghiệp không chỉ tạo ra lợi nhuận cho riêng DN mà còn đóng góp tích cực cho nền kinh tế của đất nước"- bà Vũ Thị Kim Liên nói.
Đại diện Bộ Tài Chính, Phó Vụ trưởng Vụ Chế độ kế toán, bà Hà Thị Ngọc Hà đã hướng dẫn cho các DN về các điểm thay đổi lớn và các quy định của Thông tư 200/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính thay thế Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20-3-2006 và Thông tư 244/2009/TT-BTC về chế độ kế toán doanh nghiệp.
Theo bà Hà Thị Ngọc Hà, Thông tư 200/2014/TT-BTC được đánh giá là phù hợp với thực tiễn, hiện đại và mang tính khả thi, tôn trọng bản chất hơn hình thức. Thông tư được xây dựng trên nền tảng linh hoạt và mở, lấy mục tiêu đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành ra quyết định kinh tế của doanh nghiệp, phục vụ nhà đầu tư và chủ nợ làm trọng tâm; không kế toán vì mục đích thuế. Bên cạnh đó, các quy định tại thông tư cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, tách biệt kỹ thuật kế toán trên tài khoản và báo cáo tài chính và đặc biệt đề cao trách nhiệm của người hành nghề.
Theo quy định mới của Bộ Tài chính tại Thông tư 200 có 5 điểm thay đổi nổi bật về các vấn đề: Đơn vị tiền tệ để ghi sổ kế toán, tài khoản kế toán, báo cáo tài chính, chứng từ kế toán và sổ kế toán. Các DN được dùng ngoại tệ làm đơn vị tiền tệ để ghi sổ kế toán, các doanh nghiệp có nghiệp vụ thu chi chủ yếu bằng ngoại tệ có thể chọn một loại ngoại tệ làm đơn vị tiền tệ để ghi sổ kế toán. Báo cáo tài chính để công bố ra công chúng và nộp cho các cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam là báo cáo tài chính được trình bày bằng đồng Việt Nam.
Trong hệ thống tài khoản kế toán, bên cạnh việc thêm bớt, thay đổi một số tài khoản kế toán thì điểm đáng lưu ý là các tài khoản tài sản không phân biệt ngắn hạn và dài hạn. Đối với báo cáo tài chính, thông tin bắt buộc trong báo cáo không còn là “thuế và khoản phải nộp Nhà nước”. Kỳ lập báo cáo giữa niên độ sẽ gồm báo cáo tài chính quý (cả quý IV) và bán niên.
Nổi bật hơn cả đó là việc thêm các quy định mới về xây dựng nguyên tắc kế toán và báo cáo tài chính khi doanh nghiệp không đáp ứng giả định hoạt động liên tục. Phần thuyết minh báo cáo tài chính cũng có nhiều sự thay đổi.
Đối với chứng từ kế toán, doanh nghiệp được chủ động xây dựng, thiết kế biểu mẫu chứng từ kế toán nhưng phải đáp ứng được các yêu cầu của Luật Kế toán và đảm bảo rõ ràng, minh bạch. Về sổ sách kế toán, DN được tự xây dựng biểu mẫu sổ kế toán cho riêng mình nhưng phải đảm bảo cung cấp thông tin về giao dịch kinh tế một cách minh bạch và đầy đủ.
Đại diện của Công ty kiểm toán Deloitte ông Vũ Đức Nguyên, Phó Tổng Giám đốc, đã giới thiệu về những điểm khác biệt cơ bản giữa chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) và chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) cùng với việc tổ chức áp dụng triển khai IFRS tại Việt Nam.
Theo ông Vũ Đức Nguyên, có thể thống kê 10 điểm khác biệt cơ bản giữa IFRS và VAS gồm có: Cách thức trình bày báo cáo tài chính; giá trị hợp lý; công cụ tài chính; Suy giảm giá trị tài sản; các vấn đề liên quan tới báo cáo tài chính hợp nhất; Doanh thu; tài sản cố định, bất động sản, thuê, tài sản dài hạn nắm giữ để bán; các khoản chi phí hoãn lại; Thanh toán bằng cổ phiếu và chuẩn mực ngành.
Lộ trình thực hiện chính thức áp dụng IFRS tại Việt Nam sẽ bắt đầu từ năm 2016.
“Các DN, ngân hàng có cổ đông nước ngoài, theo yêu cầu của cổ đông nước ngoài có thể lập báo cáo tài chính IFRS; Các DN vay vốn của các tổ chức tín dụng quốc tế trong điều khoản vay có thể có quy định phải thực hiện báo cáo tài chính theo IFRS; Các DN có vốn đầu tư nước ngoài thường lập báo cáo tài chính chuyển đổi theo IFRS cho mục đích hợp nhất của công ty mẹ; Một số DN phát hành trái phiếu quốc tế hoặc niêm yết ở nước ngoài lập báo cáo tài chính theo IFRS để đảm bảo các thông tin theo yêu cầu của thị trường và nhà đầu tư.”- ông Vũ Đức Nguyên chia sẻ.
Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng IFRS cần có sự quyết tâm và tổ chức thực hiện của lãnh đạo DN bởi IFRS không chỉ quy định về việc lập báo cáo tài chính, quy trình kế toán mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của DN.
Thu Hằng- Báo Hải Quan