Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

Thôi được rồi. Nhưng tôi nghĩ rằng có lẽ nó không nên ngủ ngoài lều, để tôi sửa soạn một phòng trong nhà dành cho nó. Nhà tôi rất rộng!
- Thưa bà không sao đâu. Nó không cần ngủ trong nhà đâu. Nó khó ngủ lắm và tôi không muốn nó làm phiền bà. Nó ngủ trong cái chòi tranh kia là tốt nhất.
Thế là ngày hôm sau Mẫn tới làm việc cho bà Phạm. Chẳng bao lâu, bà Phạm nhận thấy những gì mẹ cậu ta nói với bà hoàn toàn đúng. Mẫn không bao giờ than phiền cũng như không bao giờ tỏ ra mệt mỏi. Mỗi buổi sáng dù ông bà Phạm dậy sớm tới đâu đi nữa, Mẫn đã đang làm việc hăng say, khi thì cho gà vịt, cho cá ăn khi thì làm vườn... Dần dần bà cho Mẫn làm một vài việc vặt trong nhà và bất cứ việc gì bà sai cậu ta, không bao giờ bà phải nhắc lại lần thứ hai. Một hôm, bà nói với ông Phạm:
- Thằng bé Mẫn nó giỏi thật! Nhưng nó không giống một đứa con trai mà giống như... một cái máy vậy. Ông có biết là nó không hề nói một lời nào với tôi hay không? Nó cũng không bao giờ nhìn tôi mà chỉ luôn luôn nhìn xuống đất.
Ông Phạm càu nhàu:
- Hừ! Tôi chỉ biết một điều là nó làm cho tôi nổi da gà. Có thể nó bị câm hay sao đó. Và theo ý tôi, có thể tâm trí nó không được bình thường cho lắm.
Bà Phạm lắc đầu:
- Không thế đâu, tôi thấy nó rất thông minh. Tôi chỉ có cảm tưởng như nó là một kẻ mộng du, làm việc trong khi đang ngủ...
Ông Phạm ngắt lời:
- Ờ, thì... giá thuê mướn như vậy cũng được... À, mà không được! Chỉ có năm ngàn đồng một ngày quả là không thể chấp nhận được khi nó làm việc thật siêng năng. Mình cho nó lên mười ngàn đồng đi. Tôi không bực bội gì vì sự hiện diện của nó, nhưng để coi việc tăng lương có khiến nó phản ứng gì hay không.
Bà Phạm thì không nghĩ rằng Mẫn để ý tới vấn đề tiền bạc vì cậu ta không bao giờ đụng chạm tới. Mỗi ngày, sau buổi trưa cậu bé ngưng làm việc, đứng yên một chỗ nghiêng đầu như nghe ngóng. Chỉ mấy phút sau mẹ cậu xuất hiện từ sau hàng cây dâm bụt dầy đặc, mang đồ ăn trên một cái gà-mên đậy kín tới cho cậu. Bà ta chờ tới khi bà Phạm trả tiền rồi mới dẫn con tới lều và ngồi chờ trong khi con bà ăn uống. Bà Phạm nói với chồng bằng một giọng bất bình:
- Tại sao bà ta lại không chịu để tôi cho nó ăn uống? Tôi đã thấy món ăn bà ta đem tới cho nó, trông giống như một loại cháo lỏng. Đó không phải món ăn thích hợp cho một đứa bé làm việc vất vả như vậy. Tôi thấy hình như nó còn ốm hơn khi vừa mới tới đây nữa.
Ông Phạm hoàn toàn đồng ý. Xương mặt của Mẫn bây giờ lộ ra rõ rệt. Khi cậu cúi xuống, những đốt xương sống hiện lên thật rõ sau làn vải áo. Bà Phạm cố gắng một lần nữa khi gặp mẹ Mẫn:
- Tôi muốn cho cháu Mẫn ăn đồ nóng hàng ngày. Nếu không, tôi không thể để nó tiếp tục làm việc như hiện tại. Nó mỗi ngày một gầy yếu. Tôi sợ rằng nó có thể bị bệnh hay làbị suy dinh dưỡng.
Một nét hoảng hốt hiện lên trong đôi mắt người đàn bà:
- Thưa bà, bà không hiểu đâu. Mẫn giống y như cha nó. Nó không ăn được những món ăn của bà và của tôi. Nó không thể ăn muối được. Cơ thể của nó không chịu đựng được muối. Xin bà cứ để mọi việc diễn tiến như hiện tại và xin cho cháu nó tiếp tục làm việc với bà. Nó là đứa con duy nhất mà tôi nhờ cậy được. Nếu không có số tiền mà nó kiếm được ở đây, mấy em nó ở nhà sẽ chết đói hết cả.
Bà Phạm đành phải nhượng bộ:
- Thôi được. Nó có thể tiếp tục làm việc với tôi. Phải nhìn nhận rằng nó làm việc rất giỏi nhưng nó có vẻ không được vui lắm khi ở với chúng tôi. Nó không bao giờ cười và cũng không bao giờ nói một lời với tôi hoặc nhà tôi.
Người đàn bà nhún vai:
- Thưa bà, điều đó không có nghĩa gì hết. Mẫn là đứa trẻ rất khác người. Nó không có cùng sự xúc cảm như những đứa trẻ khác. Nó chỉ biết một việc duy nhất là giúp đỡ tôi và các em nó. Xin ông bà đừng thắc mắc gì về nó. Nó luôn luôn làm những gì nó muốn. Xin hãy để yên cho Mẫn…
Tuy nhiên bà Phạm vẫn tự hỏi “Có phải đó là việc Mẫn muốn làm hay không?”. Rồi một buổi tối hôm đó bà đứng ở cửa sổ phòng ngủ nhìn ra căn chòi tranh nơi Mẫn thường ngủ. Cậu bé không ngủ mà ngồi ngay ở cửa, hai tay bó gối nhìn ánh trăng không chớp mắt. Bà nói lớn:
- Chắc có điều gì lạ lắm thì phải.
Ông Phạm đang ngái ngủ lên tiếng:
- Bà nói cái gì thế?
- Thằng Mẫn đó. Tôi đứng theo dõi nó đã nửa tiếng đồng hồ. Nó ngồi yên như phỗng đá vậy. Với những việc nó làm ban ngày, đáng lẽ nó đã phải ngủ từ lâu rồi. Nhưng mà không, nó vẫn ngồi bó gối ngoài kia kìa.
Ông Phạm vừa ngáp vừa tiến tới bên vợ:
- Đáng lẽ tôi phải cho bà biết điều này từ lâu rồi. Tôi thấy nó vẫn luôn luôn ngồi đó suốt đêm. Theo tôi biết, nó hình như không bao giờ ngủ. Thú thực với bà, tôi thấy thằng bé này có vẻ ma quái quá! Nhưng thực ra nó đâu có làm gì phiền ai đâu!
Bà Phạm không nói nhưng biết rõ rằng Mẫn đã khiến bà lo nghĩ rất nhiều. Sáng hôm sau, hình dáng cậu bé khiến bà cảm thấy bất nhẫn. Làn da xanh xao của Mẫn bây giờ đã trở thành vàng khè, bóng loáng. Xương trán và xương má của Mẫn như lộ rõ ra. Bà còn lo lắng hơn nữa khi thấy Mẫn có vẻ chậm chạp hơn và mệt mỏi hơn thường lệ. Bà hỏi:
- Sao, cháu thấy không được khoẻ trong người có phải không?
Mẫn không đáp lại, lặng thinh cúi đầu đi qua trước mặt bà. Cảm thấy bứt rứt, bà Phạm nói với chồng:
- Ông coi nó kìa. Tôi nghĩ rằng nó bị bệnh. Nó di chuyển như một ông già vậy.
Ông Phạm chăm chú nhìn Mẫn đang cắt cỏ một cách chậm chạp:
- Bà nói đúng. Sao da nó bị đen nhiều chỗ thế nhỉ?
- Tôi không biết nhưng chắc chắn một điều là nó bị thiếu dinh dưỡng quá độ. Tôi không cần biết mẹ nó nói những gì và tôi sẽ chuẩn bị một vài món ăn ngon lành và bổ dưỡng cho nó. Rồi ngày mai ông đưa nó lên tỉnh gặp bác sĩ xem sao.
Nghĩ rằng có lẽ Mẫn thiếu chất protein, bà Phạm bèn làm món súp khoai tây, cà rốt, sườn heo, hột gà, còn thêm một ly sữa tươi và một cái bánh ngọt. Xong xuôi bà gọi Mẫn vào, đưa cậu ta vào phòng ăn và nói thật ngọt ngào:
- Cháu mau ngồi vào bàn đi. Tôi sửa soạn một bữa ăn thật đặc biệt cho cháu vì hôm nay là đúng ba tháng cháu làm việc với tôi. Đây là một dịp kỷ niệm dành cho cháu.
Mẫn cắn một miếng, rồi một miếng nữa. Cậu nhai miếng sườn heo chầm chậm trước khi nuốt. Rồi cậu ta từ từ đứng lên. Bà Phạm lên tiếng với vẻ lo lắng:
- Sao vậy? Cháu chưa ăn xong mà muốn đi đâu vậy?
Nhưng Mẫn đã đi ra ngoài rồi. Bà Phạm chạy tới mở tung cánh cửa. Mẫn đã đi tới hàng cây bao quanh mảnh đất với những bước chân thật dài. Bà Phạm lớn tiếng gọi nhưng Mẫn vẫn không hề nhìn lại. Ông Phạm cầm tay vợ:
- Thôi cứ để nó yên. Chắc là nó muốn đi về nhà. Có lẽ mẹ nó nói đúng. Đáng lẽ bà không nên cho nó ăn những món đó.
Đêm hôm đó bà Phạm trằn trọc suốt đêm. Hôm sau khi trời mới tờ mờ sáng bà đã dậy, ra vườn đi tới đi lui. Đúng như bà lo ngại, Mẫn đã không quay trở lại. Tuy nhiên ngay trước buổi trưa, mẹ cậu ta tới nơi, tiến thẳng tới trước mặt bà Phạm, khuôn mặt bà ta đanh lại:
- Bà đã làm việc đó phải không? Bà cho nó ăn sau khi tôi đã dặn bà không được làm như vậy. Bà cho nó ăn cái gì thế?
- Thì... tôi cho nó ăn súp khoai tay và sữa tươi, là những thứ đồ ăn cần thiết cho Mẫn.
Người đàn bà rên lên:
- Súp khoai tây! Trời ơi! Bà cho nó ăn muối rồi!
Rồi bà ta rít lên the thé:
- Bà điên rồi hay sao? Tại sao bà không để nó được yên?
Bà Phạm có vẻ bối rối:
- Tôi rất tiếc nếu đồ ăn của tôi khiến cho cháu Mẫn bị bệnh.
Đột nhiên bà Phạm đổi giọng giận dữ:
- Nhưng... nó thiếu ăn tới độ gần chết đói ngay trước mắt tôi. Tôi không thể nhắm mắt làm ngơ được. Tôi sẽ trả tiền thuốc men và sẽ nhờ một bác sĩ săn sóc cho nó.
Người đàn bà kia im lặng trong một phút trước khi lên tiếng bằng một giọng khá buồn bã:
- Thưa bà, xin bà vui lòng đi theo tôi để xem những gì bà đã làm cho con tôi.
Người đàn bà quay lưng. Bà Phạm đi theo bà ta xuyên qua cánh rừng trước khi tiến tới một chân đồi. Khoảng nửa tiếng sau, hai người tới một túp lều xiêu vẹo nơi ba đứa nhỏ đang ngồi yên ngoài cửa. Khi bà Phạm ngưng lại, người đàn bà nắm tay bà tiếp tục kéo lôi đi. Bà Phạm hỏi:
- Đây không phải nhà bà hay sao? Cháu Mẫn không có trong căn nhà này hay sao?
Người đàn bà lắc đầu tiếp tục đi tới. Mấy phút sau cả hai vượt qua một hàng cây trước khi tiến tới một khoảng đất trống với một vài ụ đất cỏ mọc um tùm. Một vài ụ đất có cắm cây thánh giá, những ụ khác thì không. Bà Phạm rùng mình:
- Đây là chỗ nào vậy bà?
Người đàn bà thản nhiên đáp:
- Một khu nghĩa trang cũ. Không còn ai dùng đến nữa. Đây, mời bà tới đây.
Rồi bà ta chỉ vào một ụ đất. Bà Phạm giật mình nổi gai ốc khi thấy đám cỏ phía trên như bị xé bung ra và dường như có người tìm cách đào một cái hố ở phía dưới.
Không một ai hoặc một sức mạnh nào có thể buộc bà tới gần ngôi mộ bị đào tung lên đó. Tuy nhiên từ nơi bà đứng, bà Phạm nhìn thấy dưới hố một hình thù co quắp trong chiếc quần jean sờn rách và cái áo thun bẩn thỉu. Người đàn bà rên rỉ:
- Đó, thằng Mẫn đó. Đó là chỗ bà đưa nó tới đó. Chồng tôi và nó chết từ hai năm nay giữa một mùa đông lạnh lẽo vì chứng sưng phổi. Tôi cầu khẩn cả hai trở lại nhưng chỉ có thằng Mẫn đáp lại lời cầu xin của tôi. Nó biết là tôi cần nó. Nó muốn săn sóc cho tôi và mấy em của nó. Nó luôn luôn là một đứa con ngoan ngoãn.
Bà Phạm ngẩn ngơ:
- Bà nói gì thế? Tôi... tôi không hiểu gì cả...
Người đàn bà dường như không để ý, lẩm bẩm:
- Tôi phải săn sóc cho nó thật cẩn thận. Bà có biết là bà không thể cho người chết ăn muối hay không? Muối làm người chết quên tất cả mà chỉ nhớ chỗ ngơi nghỉ cuối cùng của họ mà thôi. Chính bà đã khiến cho thằng Mẫn phải trở về với nấm mồ cũ của nó, và từ bây giờ trở đi, chắc chắn là nó sẽ không bao giờ rời khỏi nơi đó nữa…
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

Quái Vật Ăn Linh Hồn
Câu chuyện này đã xảy ra mười chín năm về trước nhưng nó vẫn ẩn hiện trong tâm trí tôi như sự việc mới xảy ra ngày hôm qua...

Ðó là một buổi sáng mùa hè, khi bóng tối từ từ lui dần nhường chỗ cho ánh bình minh đang chiếu rạng khắp nơi, tôi và Paul (người bạn thân nhất) sau khi ăn sáng xong cùng rủ nhau vào khu rừng cạnh nông trại của bà nội bạn ấy để thám hiểm.

Khu rừng này nằm ở phía Tây Nam thuộc tiểu bang Missouri (Hoa Kỳ) không cách xa ngọn núi Ozark lắm. Ðịa thế của nó là một vùng đồi núi mọc dầy đặc những cây xanh to lớn. Tuy thuộc tiểu bang Missouri nhưng nó chạy dài đến tận thành phố Kansas, đó là một nơi được nhiều người biết đến vì nó có tới một trăm, không phải, một ngàn cái hang động. Chúng tôi đi cách nông trại vài cây số về hướng Tây, chỉ có Thượng Ðế mới biết đất đai này thuộc về ai khi chúng tôi tìm thấy một cái chồi cũ đổ nát. Cái chồi này bề ngang khoảng 6 thước và bề dài không hơn 8 thước, nó chỉ còn lại 3 bức tường, mái nhà thì đổ xuống dọc theo bức tường sụp, dù vậy quý vị vẫn có thể đi vào bên trong từ cửa trước nhưng chỉ đi được vài thước mà thôi. Là những thiếu niên 12 tuổi có tánh hiếu kỳ, chúng tôi chỉ làm có bấy nhiêu...

Nhìn từ những phương hướng khác nhau thì nó giống như một cái lều hoặc cái chồi được dựng lên bởi một người nào đó bị lạc đường hoặc một người chán đời muốn sống ẩn cư vì nó trông rất là thô sơ với những khúc gỗ dài ngắn không đều nhau được ghép lại bằng một lớp bùn khô. Bên trong chồi, ngoài dấu vết của một cái lò củi và một cái đầu giường làm bằng tay - hầu như bị che khuất nằm ở một góc - còn mọi thứ khác đều bị che lấp bởi mái nhà sụp đổ tạo thành một bức tường chắn ngang không cho chúng tôi dò xét thêm.

Chúng tôi lục lọi một hồi chung quanh nơi có nhiều nhánh cây non và đá sỏi nằm rải rác xung quanh cái sàn đầy bụi cát, vì đã lâu không ai đến đây ở nên mọi thứ hầu như đã tàn phai theo năm tháng. Xem không thấy gì đặc biệt, với lại rời nông trại từ sáng sớm đi bộ và leo núi đã mệt nhọc rồi bây giờ thấy cái bụng cồn cào vì vậy chúng tôi đành rời cái chồi nhỏ để trở về nông trại ăn trưa và nghỉ ngơi sau đó sẽ thám hiểm tiếp.

Khi rời căn nhà chồi, chúng tôi đi vòng ra sau và rất ngạc nhiên khi thấy những dấu hiệu kỳ lạ khắc lên những khúc gỗ trên bức tường phía sau; những dấu hiệu lạ lùng đó đa số đều bị thời tiết tàn phá nên khó mà nhận ra được là ám tự gì, nhìn thật kỹ thì quý vị vẫn có thể thấy được vài hình vẽ như cái khuôn được nối tiếp bằng nhiều dấu chấm giống như toán hình học, những hình không tương xứng. Có vài dấu hiệu đối với chúng tôi thì giống như là những chữ Phạn ngữ vào thời xa xưa, thật ra thì cũng không giống lắm. Rất tiếc tôi không còn nhớ rõ để vẽ ra làm thí dụ.

Chúng tôi dò thám xa hơn thì thấy cách đó khoảng sáu thước, từ bức tường sau căn nhà chồi, chúng tôi thấy một tấm ván lớn gần mục nát, hình như nó được đậy trên một cái lỗ. Chúng tôi vội đến đó cúi xuống khảo sát gần hơn. Nơi đây chúng tôi lại thấy những dấu hiệu, giống như dấu hiệu viết trên bức tường sau, vẽ tràn lan trên tấm ván gỗ đó. Nó bị thời tiết phá hủy nên khó mà nhận ra được là chữ gì. Tôi lấy ngón tay trỏ thử nhấn mạnh quanh bìa miếng gỗ, lúc đó chúng tôi cảm giác lành lạnh hình như không khí đang thoát ra ngoài theo những chỗ hở mà tôi đã làm.

- Tao chắc rằng đây là một cái nắp đậy lối vào của một hang động. Tôi nói.

Paul vội tiếp lời:

- Chúng ta thử xem.

Nói xong bạn ấy liền đứng dậy tìm những cục đá lớn nhỏ chất đầy trên tấm ván, sau đó bạn ấy lấy một tảng đá thật lớn giơ cao hơn đầu rồi liệng thật mạnh xuống ngay chính giữa làm tấm ván gỗ nát ra thành nhiều mảnh để lộ ra một cái lỗ lớn; chúng tôi có thể nói đó là lối vào của một hang động.

Chúng tôi rụt rè thò cái đầu vào hang động để xem chiều sâu của nó là bao nhiêu. Chúng tôi lấy làm thích thú lẫn ngạc nhiên thấy rằng đầu dốc hơi nghiêng nằm trong bóng tối không có sâu lắm và có thể đi vào được. Vui mừng vì sự thám hiểm tìm kiếm của chính chúng tôi về cái hang động này nên chúng tôi bàn tính phải nhanh chân trở về nông trại để lấy đèn bin, dây nhợ, và đem theo một mớ đồ ăn trưa.

Trên đường trở về nhà, chúng tôi bàn thảo với nhau rằng nếu bị bắt quả tang trong khi lấy những vật dụng đó thì không nên nói sự thật cho mọi người biết. Paul thận trọng nói:

- Ba mẹ của chúng ta sẽ không để cho chúng ta chui vào hang động thám hiểm một mình đâu nếu không có người giám sát coi chừng chúng ta.

Tôi gật đầu đồng ý.

Chúng tôi chạy thật nhanh, nhanh đến nỗi chúng tôi trở về nông trại chưa đầy một tiếng đồng hồ. Mặt trời lúc đó ngay trên đỉnh đầu và rất nóng vì đang cuối hè.

Về đến nơi, thay vì đem theo đồ ăn trưa, chúng tôi đổi ý ăn cơm trưa tại nhà. Chúng tôi ăn thật nhanh rồi gom vội những vật dụng cần thiết - may thay không có ai thấy - sau đó, chúng tôi bay ra khỏi nhà trong tích tắc.

Chúng tôi mang theo hai cây đèn bin, một cuộn dây thừng rắn chắc dài khoảng 35 thước, và một bình nước uống rồi đi thẳng vào rừng sâu.

Vì vị trí căn chồi này không nằm trên bản đồ nên chúng tôi phải đi quanh co để định hướng, cuối cùng trèo lên đỉnh của một ngọn đồi thấp chúng tôi mới nhìn thấy cái chồi đổ nát và miệng của hang động.

Lần này, chúng tôi có cảm giác bất an, hình như có gì đó không được bình thường, không khí chung quanh có mùi hôi hám rất là khó ngửi.

Chúng tôi dừng lại xem xét những dấu hiệu lạ lùng trên bức tường một vài giây trước khi đi vào hang động; thật khó mà biết được những dấu tích bí ẩn này tượng trưng cho cái gì, hoặc có ý nghĩa gì. Mặc kệ cái cảm giác khó chịu từ lúc đầu bao quanh, Paul và tôi cũng không để cho sự yếu đuối của mình cản trở cuộc thám hiểm sâu vào hang động.

Chúng tôi cột một đầu dây trong một thân cây khô gần miệng hang động vài thước còn đầu kia thì bỏ xuống lỗ hang, vì là người đã tìm được nhiều hang động trong vùng hơn tôi nên Paul dành đi trước để rọi đường. Paul bò đến gần miệng hang và bám lấy sợi dây từ từ bò vào hang động. Vừa bò bạn ấy vừa bấm sáng đèn bin rọi xuống dưới hang, lúc đó chúng tôi mới biết rằng cái hang động này còn đi xuống sâu nữa để rồi chìm khuất trong bóng tối. Ðứng trên miệng hang dõi mắt nhìn theo bạn ấy, tôi đợi chờ bạn ấy báo hiệu rằng trong hang động rất là an toàn có thể xuống. Chưa đầy 30 giây sau, tôi nghe vang lên một tiếng la kinh hãi của Paul theo sau là một tiếng “bụp”.
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)



(TT)

- Chuyện gì? Tôi la lớn.

- Ồ, không có gì. Tao nghĩ đi xuống tí nữa thì sẽ tới cuối hang nhưng bất ngờ hết dây tao bị rơi thẳng xuống dốc, may mắn thay chỉ rơi khoảng 1 thước. Bạn ấy trả lời.

- Bây giờ mày có thể xuống được rồi, đi từ từ thôi và coi chừng cái chỗ rơi thẳng xuống đó.

Mặc dù không thấy dễ chịu lắm, tôi cũng nắm sợi dây và bắt đầu đi xuống vào trong hang tối. Ðến hết sợi dây tôi từ từ thả mình nhẹ nhàng rơi xuống đất. Khi đứng ở dưới an toàn tôi mới nhìn lên cái miệng hang nhỏ xíu cao khoảng 13 thước mà chúng tôi vừa chui vào, sau đó tôi nhìn ở phía trước con đường hầm của hang động giống như một cái mạch mỏ than đá chỉ trừ là nó lấp lánh với măng đá và chuông đá. Tôi thấy bên trong hang này chiều cao khoảng 2 thước và chiều ngang gần 3 thước, nó rất ẩm ướt nhưng không thấy có nước đọng lại, đó có nghĩa là nó còn đi xuống sâu hơn nữa.

Cẩn thận bước qua chướng ngại do sự hình thành của hang động tạo ra, chúng tôi đi sâu vào hang động. Ðường hầm dẫn xuống sâu và sâu hơn như cái vực thẳm.

Càng đi xuống sâu vào lòng đất, tôi càng kinh ngạc bởi thiếu vắng sự hiện hữu của những côn trùng và động vật. Cho dù trong hang động nhỏ, quý vị vẫn có thể tìm thấy phân của côn trùng hoặc những cái màng nhện nhưng trong hang động này thì hoàn toàn không thấy dấu tích của bất cứ sự sống nào; còn một điều kỳ lạ nữa mà chúng tôi để ý đến là càng đi xuống sâu hơn thì nhiệt độ lại càng ấm áp hơn thay vì càng ngày càng lạnh hơn. Quý vị cũng biết cho dù chỉ có vài thước dưới lòng đất thì nhiệt độ cũng đã xuống thấp khoảng 10 đến 15 độ rồi, nhưng nhiệt độ trong hang động này lại ấm áp lạ thường và không khí dường như bị tù hãm và nặng nề.

Chúng tôi tiếp tục đi xuống qua cái đường hầm dài giống như một cầu thang xoắn ốc không có bậc thang cho đến khi nó nhỏ hẹp lại và thẳng dốc hơn. Từ lúc đầu chúng tôi không cần dùng dây hay dụng cụ an toàn nào thì bây giờ chúng tôi phải cẩn thận để ý nhiều hơn. Tại điểm này chúng tôi đã ở dưới lòng đất gần sáu chục thước, nhưng không có một dấu hiệu nào cho thấy ở dưới này còn hang động khác để thám hiểm thêm. “Thật ra, cái hang động này cũng đáng để thám hiểm lắm” tôi nghĩ như vậy.

Sau 15 phút hơn liên tục đi xuống, Paul và tôi cuối cùng đã đến đáy của đường hầm xoắn óc, đến tận cùng rồi. Ðó có thể là hết cuộc thám hiểm nếu chúng tôi không thấy một cái lỗ nhỏ gần mặt đất. Nó cao khoảng ½ thước và chiều ngang khoảng 1/3 thước. Paul nằm dài xuống mặt đất, lấy đèn bin rọi vào trong lỗ rồi đút cái đầu vào.

- Hay quá. Bạn ấy nói với một giọng vui mừng. Có một thành hốc khác. Tao nghĩ chúng ta có thể chui qua cái lỗ này. Ðể tao thử xem.

Bạn ấy chui vào cái lỗ, thân mình trường tới rồi uốn qua uốn lại như con rắn cuối cùng cũng qua được. Biết rằng chỉ ốm hơn Paul một tí ti như vậy thì tôi sẽ không gặp nhiều khó khăn. Sau những cái uốn qua uốn lại, tôi đã qua được. Vừa phủi bụi từ quần áo xuống tôi vừa đứng thẳng lên chiếu đèn bin chung quanh xem xét. Cái thành hốc này có một cảm giác kỳ quái lắm, dù vậy chúng tôi cũng không thấy có gì khác thường hết.

Trần thành hốc cao ít nhất 10 thước và riêng cái phòng ốc này đường kính có lẽ rộng từ 12 đến 15 thước. Ở trên tường hoặc dưới đất tại đây tương đối nhẵn, trần nhà và cái sàn đều không dính một chút bụi bậm. Người ta có thể đoán cái phòng ốc này là cái lỗ rỗng của một cái giếng nước trong lòng đất nhưng vẫn giữ khô ráo từ lúc nước rút xuống. Chúng tôi rọi đèn bin lên tường tìm kiếm đến khi tôi ra ý kiến hãy tắt đèn để xem nó thật sự tối đến đâu (đó là một sự thích thú để làm trong hang động vì không có bóng tối nào có thể so sánh được). Quý vị có thể tưởng tượng sự sửng sốt của chúng tôi khi chúng tôi tắt đèn mà vẫn có thể thấy mặt của nhau trong cái hang hoàn toàn đen tối không?

Không có bất cứ một nguồn ánh sáng nào mà toàn bộ phòng ốc lại tỏa sáng một màu đỏ chói. Bức tường có vẻ chiếu sáng và sống động một màu đỏ đậm và sáng hơn với mỗi thời khắc trôi qua, dường như chúng tôi đang đánh thức nó dậy từ một giấc ngủ ngàn năm. Chúng tôi mở đèn bin lên và bắt đầu kiếm chung quanh phòng để tìm ra manh mối vì sao bức tường lại phát ra ánh sáng kỳ lạ như vậy.

Xa trong một góc phòng, ánh đèn bin của tôi phát hiện một hiện tượng vô cùng rùng rợn.

Tôi thấy cái gì đó trông giống những khúc xương khô trong bộ quần áo rách rưới nằm chung quanh một cái sọ vỡ; và gần đó cách khoảng nửa thước lại có một cái sọ khác, cái sọ này được chẻ cẩn thận ra làm đôi và cũng nằm cạnh những khúc xương vụn nhưng nhỏ hơn. Trong đống này, tôi thấy cái gì đó như miếng vải len viền áo của một đứa bé gái hoặc áo đầm của phụ nữ. Paul cũng để ý đến những gì mà tôi đang chăm chú nhìn mà cả hai đều không thể tưởng tượng được. Vừa dự định đến gần hơn để nhìn cho kỹ, bỗng nhiên tôi nghe một tiếng nói làm ớn lạnh đến tận xương tủy.

Tôi rõ ràng nghe một tiếng con gái nói thầm thì trong tai. “Ði ra!” tiếp theo tiếng nói như thúc giục. “Chạy đi!”

Tôi sợ quá nhìn Paul và bạn ấy cũng đã nghe thấy, lúc đó chúng tôi lùi dần gần đến lỗ ra của phòng ốc.

Bỗng dưng cái sàn rung chuyển và một tiếng kêu vo ve bắt đầu vang dội cả phòng ốc. Tôi quá kinh hãi chạy thụt lùi lại, Paul nhanh chân chạy theo. Mặt đất rung động thật mạnh, tôi sợ đó là dấu hiệu của sự động đất và cái phòng ốc này sẽ sập xuống chôn vùi chúng tôi.

Tôi đã chạy đến lỗ ra của phòng ốc mà nó bây giờ trông nhỏ xíu không khác cái lỗ con chuột nhũi, tôi chui vào cái lỗ trườn tới và uốn qua uốn lại. Ở phía sau tôi nghe Paul hối thúc, khép hai chân lại tôi lấy cùi chỏ chống thân mình cố gắng đẩy về phía trước. Sau khi trở ra con đường hầm, tôi quay người lại giúp Paul. Bạn ấy gắng sức trường tới, nhưng cũng không thể chui qua nhanh được. Nếu không hiểu biết, tôi còn tưởng cái lỗ đó nó teo lại trước cặp mắt của tôi nữa.

Paul cứ gắng sức và gắng sức chui ra nhưng vẫn không qua lọt. Tôi vội liệng cái đèn bin xuống đất rồi lấy hai tay kéo bạn ấy. “Ouch” (Ao) Bạn ấy la lớn. Tôi nghĩ có lẽ mình kéo mạnh quá nên Paul đau, nhưng bạn ấy nhìn tôi với cặp mắt sợ hãi với giọng nói run run:

- Có gì đó nắm chân của tao! Có gì đó nắm chân tao! Kéo mạnh lên. Bạn ấy hét.

Dồn hết sức, tôi kéo mạnh một lần nữa, cuối cùng bạn ấy cũng qua được. Khi đôi chân của bạn ấy vừa ra khỏi lỗ thì tôi nhận thấy, từ ánh đèn bin tôi đã liệng dưới đất, có dấu giống như dấu tay - một bàn tay mà không giống một bàn tay - in trên bắp đùi của bạn ấy. Nó có hình thù lồi lõm của một bàn tay quá cỡ hoặc là bàn chân không có móng. Nó gần giống như một cái bóng, trong suốt. Ðó là tất cả những gì mà tôi trông thấy bởi vì khi Paul vừa ra khỏi lỗ, bạn ấy đứng dậy chạy thật nhanh và tôi cũng quay đầu chạy theo bỏ cả cái đèn bin của tôi ở đó.

Tại vì Paul vẫn còn đèn pin nên tôi lên tiếng Paul hãy chờ tôi với, nghe tôi kêu bạn ấy chạy hơi chậm lại vừa đủ để tôi bắt kịp.

Chỉ trong chốc lát, tiếng vo ve ngân lên càng lớn và lớn hơn, ánh sáng từ cái phòng ốc bên dưới bắt đầu chiếu sáng con đường hầm; từ phía sau chúng tôi có một mùi hôi như thịt thối bắt đầu bao trùm lấy chúng tôi. Nó thúi đến nỗi chúng tôi muốn chết nghẹt luôn.

Chúng tôi té lên té xuống, ra sức chạy càng nhanh càng tốt. Tác dụng xoắn óc của đường hầm làm mất hướng và nỗi khiếp sợ bắt đầu xâm chiếm lấy chúng tôi. Nếu Paul không bị té hay đụng đầu thì tôi lại bị, lối thoát dẫn đến mặt đất có vẻ dài vô tận. Chúng tôi đã quẹo và trèo lên nhiều lần, thay vì cái ánh sáng từ bên dưới phải rời xa ở đằng sau chúng tôi nhưng nó lại càng ngày càng gần hơn, sáng hơn, chiếu sáng cả đường hầm bên dưới một màu đỏ như máu. Cuối cùng, chúng tôi đã đến đường hầm dài và thẳng hơn cũng là nơi dẫn đến rìa dốc cuối của lối ra hang động. Paul và tôi cố lấy sức chạy nhanh để lấy khoảng cách xa giữa chúng tôi và ánh sáng bên dưới và hầu như để chạy trốn mùi hôi thúi; nhưng, tiếng vo ve vẫn càng ngày càng lớn trong một mức độ cao hơn như là tiếng còi hụ của đoàn tàu xe lửa.
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)


(TT)

Paul và tôi đến rìa dốc cùng một lúc, nhưng cả hai chúng tôi đều bàng hoàng vì không thấy ánh sáng chiếu vào từ cửa hang, tất cả đều chìm trong bóng tối.

Chúng tôi chỉ ở trong hang khoảng ba mươi phút thôi, có nghĩa bây giờ bên ngoài vẫn còn là buổi trưa, nhưng sao chúng tôi không thấy ánh mặt trời rọi vào. Paul rọi đèn bin lên nơi cái lỗ hang mà chúng tôi đã chui vào làm chúng tôi sợ run cả người... sợi dây đã biến mất và miệng hang đã bị lấp lại bằng một tấm ván gỗ mà trước đây đã đậy. Paul và tôi cùng nhảy lên dốc và bắt đầu lê cái thân về phía cửa hang. Nó không có dốc lắm nhưng cứ leo lên được hơn 1/2 thước thì chúng tôi lại bị tuột xuống ¼ thước, vì vậy mà hơi chậm. Ánh sáng bên dưới lại bắt đầu xâm lấn chúng tôi, tiếng vo ve vang dội hơn và vẫn còn ở mức độ cao. Chúng tôi cuối cùng đã đến cửa hang và bắt đầu tìm cách để thoát ra ngoài. Chúng tôi đẩy và đẩy cái tấm gỗ nhưng nặng quá chúng tôi đành chịu thua.

Không còn cách nào khác, chúng tôi đành la lớn để cầu cứu, vừa la chúng tôi vừa lấy tay đập mạnh trên tấm ván gỗ. Ánh sáng bên dưới hình như đã đến cái dốc cuối và nó đang lao về phía chúng tôi với một vận tốc nhanh như chớp.

Chúng tôi vừa bịt mắt lại vì ánh sáng chói lòe vừa la thật lớn muốn bể lồng ngực. Tự nhiên tức thì, ánh sáng bỗng mờ dần và biến mất trong bóng tối giống như nó rút từ trần nhà xuống sàn như một cơn sóng nước; tiếng vo ve chợt tắt hẳn và mùi hôi thúi cũng tiêu mất, lúc đó chỉ còn lại tiếng thở nặng nề của hai đứa chúng tôi mà thôi.

- Caaái giiii`... caaái giiii`... vaaậy? Tôi hỏi và cố gắng lấy lại hơi thở đã mất vì sợ hãi.

Tao không biết. Hãy tìm cách ra khỏi đây đi. Paul trả lời rồi bạn ấy chiếu đèn bin vòng quanh bìa cái nắp gỗ để tìm xem có gì để chúng tôi có thể dùng làm một điểm bắt đầu không. Sau đó, hai đứa chúng tôi lại đập lên tấm ván gỗ.

Rồi không dấu hiệu cảnh cáo hay báo trước, chúng tôi bỗng nghe rầm bên dưới theo sau là một tiếng mà đã đem cho tôi ác mộng đến ngày hôm nay, một tiếng ùn ục rợn người đang dâng lên đường hầm như vũ bão. Ðèn bin của Paul chợt tắc và chúng tôi bị chìm vào trong bóng tối, hoàn toàn tăm tối. Tiếng ùn ục càng ngày càng đến gần, bây giờ chúng tôi quá độ kinh sợ để mà la lên. Tôi nhớ là mình đã dựa sát vào tường đá toàn thân đơ cứng vì sợ hãi. Tôi không thể nói, không thể cựa quậy, không thể thấy, mà chỉ biết im lặng để lắng nghe trong khi tiếng ùn ục bắt đầu chuyển thành như một tiếng hú khi nó bay lên đường hầm hướng về phía chúng tôi giống như một chiếc xe lửa điện chạy 100 km/giờ. Không khí bừng nóng cùng với một cơn gió rít xoáy mạnh chung quanh chúng tôi xen lẫn với tiếng kêu gào của một đứa con gái ngay trong tai tôi.

Trong lúc tôi như muốn xỉu vì quá sợ thì cảm thấy có gì đó hơi cứng lao nhanh qua chúng tôi rồi phóng vào nắp gỗ như một viên đạn pháo vô hình. Những mảnh gỗ bể rớt xuống và ánh sáng mặt trời tràn vào làm hiện rõ khuôn mặt sợ sệt của chúng tôi. Như đọc được tư tưởng của nhau, chúng tôi phóng khỏi hang động, tôi trước sau đó đến Paul. Chúng tôi nhanh nhẩu đứng dậy phủi hết lớp bụi bậm dính quần áo. Không biết là nên chạy hay ngã quỵ, chúng tôi nhìn nhau đợi chờ xem ai hành động trước thì một người đàn ông mặc áo len đi vòng ra từ cửa trước căn chồi, tóc ông ấy dài và bù xù, trên khuôn mặt cằn cõi của ông có nhiều nếp nhăn ngang dọc.

Ðôi chân muốn chạy nhưng đầu óc lại bất đồng, có gì đó về người đàn ông này đã làm chúng tôi ở lại, cái gì đó không đe dọa mà lại rất an lành. Ông ta bước từng bước chầm chậm đến chúng tôi, trong khi tiếng rú cứ lớn dần như thể nó đang từ hang động bay vút ra ngoài, lượn một vòng chung quanh những thân cây ở gần đó để trở lại thanh toán chúng tôi; chúng tôi nghe tiếng cây gẫy răn rắt trong khoảng cách như là nó đang ủi tất cả những gì cản đường nó. Một lần nữa, chúng tôi lại đứng chết trân trong sợ hãi, yếu sức để ngăn chận cái gì đó đang bay nhanh về hướng mình. Lúc này, người đàn ông với vẻ mặt lo âu khi vừa mới xuất hiện bây giờ đã biến thành một vẻ mặt cương quyết như sắt đá, ông ta giơ cao hai cánh tay lên trời và bắt đầu đọc lẩm bẩm vài câu ngôn ngữ gì đó mà chúng tôi không thể nhận ra hay hiểu được.

Tiếng hú càng ngày càng lớn vang vọng cả núi đồi. Giờ đây chúng tôi mới thấy được một cái bóng màu đen, giống như một cụm mây đen như nhọ nồi nhưng chưa đủ để kết thành một khối đặt. Nó bay xuống đồi, làm gẫy rạp những cây cối nhỏ ở giữa nó như là những cây diêm quẹt nằm trong hộp. Ông già hốc hác liền bước tới chận đứng con đường của nó tiến về phía chúng tôi, rồi ông ta tiếp tục lẩm bẩm những ngôn ngữ kỳ lạ. Lúc này, những lời ông đọc dường như vang xa và dội lại xuyên qua rừng núi như tiếng hú của một con chó sói.

Quái vật dường như chậm lại, và nếu có chân, nó đang lùi bước.

Ánh sáng lại bắt đầu phát ra từ lối vào hang động, nhưng lần này không phải là màu đỏ như máu chúng tôi đã thấy khi trong hang động mà là một ánh sáng màu trắng, nó chói sáng đến nỗi chúng tôi không thể nhìn thẳng vào nó được. Hình như quái vật đang chống cự lại cái ánh sáng này, nhưng thất bại, nó đã bị lôi xuống lỗ và thét lên một tiếng nghe điếc tay để kháng cự.

Ánh sáng chói loà đó dường như bao trùm con quái vật và đưa nó về trong lòng đất sâu. Tiếng la rên rỉ đã lặng yên, ánh sáng rút xuống sâu trong hang động cùng với tù nhân của nó rất nhanh chóng như khi xuất hiện.

Bàng hoàng với những gì không thể tưởng được làm chúng tôi sửng sốt chỉ biết đứng nhìn chăm chú vào ông già. Sau khi ánh sáng cùng quái vật rút xuống hang động, ông ta mới đi tới cái miệng hang rồi vẫy tay một cái thì tấm gỗ đậy bị bể lại một lần nữa thành nguyên vẹn. Những dấu hiệu mà chúng tôi thấy trước đó bây giờ lại từ từ hiện ra như mới được khắc lên trên tấm ván. Sau khi làm xong nhiệm vụ, ông già mới chú ý đến chúng tôi và hỏi chúng tôi có bị thương tích không. Paul và tôi cùng xem xét thân thể, ngoại trừ trầy da đầu gối và khuỷu tay ra chúng tôi chỉ bị dơ quần áo vì đất cát với mồ hôi nhỏ giọt, vì vậy chúng tôi chỉ gật đầu mà không nói gì.

- Hai đứa đã gần tiêu tại đây rồi. Ông già nói.

- Ai?... Ý tôi là... Cái gì đó? Paul nói lắp bắp.

- Nó ác, dữ tợn và bất diệt. Các con có thể gọi nó là yêu ma hay ác quỷ.

Ông ta ngừng khoảng một chốc rồi tiếp:

- Nó là cả hai mà không phải cả hai.

Ông ta nói với một giọng trầm xuống.

- Ðiều quan trọng là nó không thể ăn nữa, nó càng mạnh mẽ hơn nếu nó ăn được.

Nói đến đây gương mặt ông già bỗng trở nên âu sầu, ông ta đi qua mặt chúng tôi bước về hướng căn chồi đến cái bức tường hậu hướng vách với cửa vào hang động. Ông ta tụng vài câu ngôn ngữ lạ kỳ và những dấu hiệu như biến mất bây giờ lại xuất hiện, nhìn rất mới như vừa được khắc lên. Sau đó ông ta đi vòng ra đằng trước chồi rồi biến mất.

Paul và tôi nhìn nhau không nói một lời nào rồi cùng chạy theo ông già vòng ra đằng trước căn chồi sụp để hỏi ông già thêm vài thông tin.

Chúng tôi càng ngạc nhiên hơn khi không tìm thấy dấu vết gì cả, chỉ vài giây thôi sao ông già lại đi nhanh thế, ông ta chắc chắn không có vào trong chồi để ẩn núp. Chúng tôi gọi lớn, chạy vòng quanh căn chồi, chạy cả lên trên đồi để nhìn xem ông ta có chạy trốn không, nhưng cũng không thấy bóng dáng ông ta đâu hết. Lạ thật, sao không có dấu chân cũng không nghe tiếng chân đi, dường như ông ấy đã biến mất như làn khói mỏng manh.

Bây giờ với tình trạng ngỡ ngàng và bối rối, chúng tôi lại trở vào căn chồi để xác định rằng ông ta không có trốn ở trong đó. Lần này chúng tôi đẩy cái mái nhà bị xụp đổ để tìm kiếm và chúng tôi đã tìm được... Một cái xác cứng đơ gần như mục rã hết của một người đàn ông mặc đồ giống hệt như ông già đã giúp chúng tôi chỉ vài phút trước đây. Trong lòng bàn tay của xác chết chúng tôi thấy có một tấm hình trắng đen cũ rích nằm trong một cái khung bể sậm màu.
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)


Paul để tấm hình lại chỗ cũ. Lúc đó, chúng tôi để ý thấy cái gì đó nằm gần chân giường, tôi cúi xuống phủi lớp bụi bám ở trên mới biết đó là một quyển sách. Tôi cầm lên và mở ra xem từng trang. Đó là một quyển nhật ký.

- Tao chắc rằng mình sẽ tìm được những câu trả lời ở trong đây. Tôi vừa nói vừa kẹp nó vào nách. Thôi chúng ta hãy rời khỏi chỗ này ngay đi.

- Tao cũng nghĩ vậy! Paul nói.

Chúng tôi lại lấy tay đẩy những thứ đồ nằm chắn đường để vạch lối đi ra. Sau khi rời khỏi căn nhà chồi chúng tôi chạy một mạch về nông trại như những con ong bay nhanh về tổ, và con đường về nhà lần này sao chúng tôi thấy dài vô tận. Chúng tôi hai đứa không nói một câu gì trên con đường về, mỗi đứa đều ngẫm nghĩ và ước luợng những sự việc vừa mới trải qua.

Vừa đến nông trại chúng tôi vội tắm cho sạch sẽ bằng cái vòi nước ở sau vườn rồi chúng tôi vào trong nhà uống vài ly nước lạnh, lúc đó chúng tôi mới biết rằng không có đứa nào đem bi đong đựng nước về. (Cho đến hôm nay tôi vẫn không biết việc gì đã xảy ra cho những bình nước uống và sợi dây thừng! Có thể nó bị rớt đâu đó trong đường hầm khi chúng tôi trên đường tìm cách thoát thân.)

Paul nhẹ nhàng lấy tấm hình đó từ tay của thi thể rồi đưa lên nơi có ánh nắng rọi vào. Trong hình là một người đàn ông khỏe mạnh, có lẽ đó là hình dáng của ông ta lúc còn trẻ đã cùng với người vợ và đứa con gái đứng chụp trước một nông trại sang trọng trông họ rất là hạnh phúc.



Khi cảm thấy khỏe khoắn và tương đối an toàn, chúng tôi mới lấy cuốn nhật ký cũ gần rách nát đem lên một căn phòng trống trên lầu và bắt đầu đọc từng trang. Hầu hết những sự việc trong quyển nhật ký này đều nói về hang động và gì đó ở dưới lòng đất mà chúng tôi không hiểu vào thời đó. Những trang sách đều ghi đầy những ý nghĩ rối loạn và vắn tắc, còn chữ viết thì khỏi nói rất khó đọc. Cho đến vài năm sau này đọc đi đọc lại nhiều lần thì tôi mới có thể hiểu được một chút ít về sự việc đã xảy ra chung quanh hang động.

Từ đó tôi mới biết rằng:

Vào cuối năm 1890, ông cùng vợ và đứa con gái đã dọn đến vùng đồi núi xây một căn nhà thật đẹp. Họ sinh sống bằng nghề chăn nuôi và trồng hoa màu trên mảnh đất mà họ làm chủ.

Có một ngày, đứa con gái đi vào rừng để thám hiểm cùng với người bạn ở cạnh nhà... Ðây chỉ là một cuộc thám hiểm bình thường thôi bởi vì theo ông ta ghi chép, đứa con gái của ông ta thà là phiêu lưu mạo hiểm, luôn luôn vào rừng để thám hiểm, nếu không đi hướng này này thì con gái của ông cũng đi hướng kia, chứ không chịu ở nhà.

Từ khi bị té trật chân không tự một mình về nhà đã làm mọi người lo lắng đổ xô đi tìm mới thấy cô con gái ngồi ở dưới một gốc cây trong rừng, từ đó thì ba mẹ cô gái bắt buộc cô ta muốn vào rừng thì phải rủ thêm một người nữa cùng đi nếu không thì cô không thể vào rừng được.

Và vào một ngày mùa thu, khi cả khu rừng nhuộm một màu vàng úa, cô bé cùng một người bạn gái đã vào rừng thám hiểm và không bao giờ trở ra nữa.

Tối hôm đó, ông ta và vợ cùng với gia đình người bạn gái tìm kiếm khắp khu rừng; cho đến cả ngày hôm sau, cảnh sát trưởng cùng những nhân viên đều chia nhau đi tìm, và những gia đình hàng xóm cũng góp tay trong việc tìm kiếm. Mặc dù tất cả mọi người kiếm tìm khắp nơi nhưng hai cô con gái vẫn biệt tích. Hai tuần trôi qua, không thể chịu được, ông ta cùng với người vợ tiếp tục lục soát từng con đường mòn đến từng hang động chung quanh nơi ở của họ. Trong lúc tìm kiếm, họ đã khám phá ra lối vào của một hang động mà từ trước đến giờ không ai biết nó hiện hữu. Lo sợ cho đứa con gái cũng đã khám ra cái hang động này nên họ quyết định đi vào để xem.

Vào hang động được hơn một thước, người mẹ tìm được sợi vải cột tóc thường ngày của đứa con gái dính đầy máu khô. Ðiên cuồng và mất trí với nỗi đau thương, người mẹ bắt đầu chạy xuống xâu hơn nữa. Người đàn ông, từ từ đi khập khễng vì bị bong gân mắt cá chân khi mới bước chân vào hang động, vì vậy mà khó có thể thuyết phục người vợ dừng lại đợi chờ ông ta. Ông ta khuyên răn người vợ nên trở về nhà để kéo thêm người đến giúp.

Mặc ông ta có khẩn thiết van xin bà hãy trở lại nhưng người vợ vì quá nóng lòng tìm con nên bà ta cứ cấm đầu chạy xuống hang động tối đen, bà ta vừa chạy vừa gào thét tên đứa con gái của bà. Biết rằng chân mình bị trật không thể nào vào sâu trong hang động được nên ông ta đành ở lại cạnh lối vào hang để chờ đợi và lắng nghe tiếng vợ của ông ra hiệu hoặc trở lại với những gì mà bà ta tìm được. Đó là lần cuối cùng mà ông thấy vợ của mình còn sống.
Ông ta nghe được tiếng vợ mình kêu tên của đứa con gái, Emily, lập đi lập lại nhiều lần, và từ từ nhỏ dần khi bà ta xuống sâu dưới hang động. Rồi, không một dấu hiệu báo trước có điều không may xảy ra, ông ta bỗng nghe vợ ông ta thét lên một tiếng kinh hoàng. Nhắm mắt lại trong nỗi buồn tuyệt vọng, nghĩ rằng vợ ông đã tìm thấy thân xác nhỏ bé của con gái mình nên ông gọi vọng vào, nhưng không một tiếng đáp lại. Vào lúc đó ông mới nếm được những gì mà tôi và Paul đã chịu đựng.

Những gì ông ta cảm nhận và chứng kiến cũng giống những gì chúng tôi đã kinh nghiệm được, bắt đầu như là một trận động đất rung chuyển. Ông ta gọi vợ hãy trở lên vì sợ bà ta bị chôn vùi nhưng không một tiếng trả lời. Sau đó ông nghe thấy tiếng vo ve càng ngày càng lớn vang lên, tiếng kêu lạ kỳ không phải người. Sợ đó có thể là dã thú, nên ông cố gắng bò ra ngoài. Ông vội vã rời xa hang động đến núp sau một thân cây ngay dưới chân đồi gần đó.

Ông ta nghe cái tiếng rú càng ngày càng lớn và thấy một ánh sáng màu đỏ chói chiếu ra từ hang động, khi ánh sáng đỏ tan mất thì một cái bóng đen phóng ra khỏi hang như một viên pháo đại bác.

Cái bóng đen bay lên không khoảng 20 thước rồi quay trở về, hình như nó đang cầm gì đó. Khi nó đáp xuống đất, ông ta mới thấy đó là một cánh tay của vợ ông. Ông ta thấy cánh tay đã bị xé ra máu chảy đầy miếng vải màu xanh bị rách nát từ chiếc áo đầm vợ ông mặc. Cái bóng đen tiếp tục ăn... nó xé thịt ra từng mảnh, máu chảy đầy dẫy, dường nó cần máu hơn là cần thịt.

Ông ta viết rằng khi quái vật dính đầy máu thì nó trở nên cứng rắn hơn.

 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

Biết rằng quái vật vừa mới giết vợ mình, và cả đứa con gái cùng người bạn, ông nhè nhẹ lén đi ra sau ngọn đồi, rồi chạy nhanh một mạch về nhà mặc cho chân mình xưng lên và đau buốt. Oán hận và tức giận với sự đau buồn, ông phóng nhanh vào nhà chụp ngay cây súng, nhét thật nhiều bao đạn vào trong túi áo và bỏ đạn vào khẩu súng rồi lên đạn. Để trả thù, ông bắt đầu chạy trở lại chỗ ẩn núp gần chân núi nhưng không thấy bóng con quái vật đâu. Ông ta cẩn thận bò từ từ đến nơi xảy ra cảnh hãi hùng gần cửa hang. Máu dính đầy trên cỏ và lá khô, những mảnh áo đầm của vợ ông bị xé nát từng sợi khó mà nhận ra được. Có những mảnh thịt nhỏ đỏ tươi nằm rải rác chung quanh, nhưng không có mảnh nào lớn để đủ nhận biết đó là con người.

Đau lòng tận cùng, ông quỵ xuống và bắt đầu khóc như mưa. Ông ở đó vài phút, bàn tay ông di động trên những miếng thịt vụn máu me để tìm kiếm vài thứ gì đó có thể nhận diện ra, như là những cọng tóc từ cái đầu của vợ ông bị dính trên một mảnh vải rách. Cảnh tượng người vợ và đứa con gái chết thảm thiết cứ ám ảnh trong đầu ông và lần nữa ông lại điên lên với cơn giận tột đỉnh. Ông ta đứng dậy, giơ cao cây súng rồi kêu lớn để con quái vật ra ngoài. Ông la lớn xuống hang, ông hét lớn vào thinh không, ông gào thét điên cuồng. Chẳng bao lâu con quái vật xuất hiện.

Tiếng hú vang dội trên đồi sau lưng ông là con quái vật, bây giờ gần như rắn chắc hơn.

Ông diễn tả con quái vật: Nó là một con vật màu đen có một lớp da dầy, mỗi lần nó di chuyển có một làn khói đen bay theo giống như cục than đen đang cháy bị giội nước lăn long lóc xuống đồi. Cặp mắt của nó màu đỏ chói như hai cái giùi nóng. Con quái vật lao đến ông, đôi tay của nó dang rộng với móng vuốt nhọn hoắc như dao lưỡi lìm sẵn sàng cắt ông ra làm hai khúc. Ông bình tĩnh cầm súng nhắm và chờ đợi đến phút cuối cùng khi ông cảm thấy hơi thở nóng bỏng phà vào mặt lúc đó ông mới bóp cò. Cái thân trên của con quái vật nổ tung thành một đám bụi đen nhưng thân dưới của nó vẫn còn tiếp tục tiến tới vật mạnh ông xuống đất rồi đè lên thân thể ông.

Nó quằn quại co giật trên người ông trong khi ông vùng vẫy bên dưới sức nặng của nó, nhưng từ từ nó biến thành đám bụi đen không có trọng lượng rơi xuống như đống tro tàn. Cuối cùng ông đã có thể đứng dậy. Ông lấy lại hơi thở rồi nhìn chung quanh, bỗng một luồng gió không biết từ đâu thổi đến rất mạnh mẽ, nó là một lực hút từ sau lưng ông kéo theo không khí chung quanh rồi thổi qua ông. Ông gắng sức chạy nhanh đến núp sau một thân cây nhỏ trong khi những đống bụi đen của con quái vật một lần nữa lại tụ hợp thành một cái bóng mờ nhạt, nó từ từ tiến về phía hang động. Ông lại nhắm vào nó bắn thêm một lần nữa trước khi nó khuất dạng, nhưng viên đạn của ông đã bay xuyên qua đám bụi đen trúng vào thành vách của lối vào hang động. Nó không còn cứng rắn nữa, giờ đây nó chỉ là một đám mây đen.

Ông chạy đến cửa hang nhìn xuống, trong hang tăm tối ông nghe một tiếng rên rỉ yếu ớt rồi lặng thinh. Ông quay lại đi khập khễng về nhà.

Dựa trên nhật ký, ông có đến thăm viếng gia đình cha mẹ người bạn của đứa con gái và đã giải thích cặn kẽ những sự việc đã xảy ra. Sau đó họ cùng nhau đến hang động lấy những thân cây gỗ hoặc những tàng cây chết bỏ đầy xuống lỗ để ngăn chặn bất cứ ‘cái gì’ muốn xuống hoặc ra ngoài hang cho đến khi một công trình xây cất chắc chắn hơn được dựng lên.

Theo sau là chi tiết về những đám tang, rồi việc bàn thảo về cuộc xây dựng cái gì đó cứng rắn để đậy lối vào hang động, và vì sao không một ai tin ông về con quái vật chỉ có bóng thôi. Mọi người trong thị xã đều nghĩ rằng ông ta bị mất trí vì thấy vợ chết một cách hãi hùng, cũng vì vậy ông đã lẫn tránh những người chung quanh và xa lánh cả xã hội; nhưng, ông ta lúc nào cũng quyết tâm điều tra xem ‘cái gì’ ở trong hang. Ông nghiên cứu các sách vở trong thư viện của thị xã, xem tất cả các sách thời Trung Cổ, sách Thánh Kinh, kể cả những sách thần thoại, nhưng ông không tìm thấy được một chút gì diễn tả giống như ông đã nhìn thấy và kinh nghiệm được.

Cho đến một ngày mùa đông, vài tháng sau, khi ông ta nghe có người gõ cửa đó là lúc ông tìm được câu trả lời.

Nhật ký của ông ghi lại rằng một người Mỹ da đỏ địa phương, có cha mẹ đã ở lại đó khi bộ lạc Arapaho bị đuổi để đến vùng đất dành riêng cho người da đỏ tại Oklahoma, đã nghe được câu chuyện của ông. Ông này đã xác nhận và biết về nguồn gốc của con quái vật; đó là một truyền thuyết được truyền từ đời này sang đời khác trong lạc bộ của ông ta, và họ đã sống chung quanh trên vùng đất này cả ngàn năm. Họ gọi con quái vật đó là Grosslor nghĩa là con ăn linh-hồn: con quái vật này có năng lực phi thường, nó nằm lì dưới hang qua nhiều thập niên và nó chỉ ra ngoài để ăn thịt hay linh hồn của con người sau đó lại trở về một giấc ngủ dài.

Những người gọi là Shamans đã giữ bùa và những câu thần chú trong một thời gian khá lâu để kiềm chế con ăn linh-hồn trong sự kiểm soát và giới hạn năng lực của nó, bắt nó phải ngưng hoạt động hàng trăm năm. Không may, việc dời đi của bộ lạc Arapaho đã làm con quái vật ấy lấy lại lực lượng và nó bị đánh thức bởi đứa con gái của ông và người bạn khi chui vào hang động.

Với sự hiểu biết trong tay, ông đi đến tiểu bang Oklahoma hy vọng có thể bàn thảo với những người vẫn còn biết bùa chú để kiềm chế con quái vật. Khi đến Oklahoma ông được một người đàn ông tên là Hache-hi là một người không những có thể thuật lại từng chi tiết về con ăn linh-hồn mà còn biết được những câu thần chú đã truyền xuống từ ông nội của ông ta. Hiển nhiên, người dùng những bùa phép này sẽ bị trói buộc với con quái vật trong một phương pháp được sắp đặt sẵn, cho dù đến chết cả hai vẫn không ngừng vật lộn và chống chọi nhau. Linh hồn của người dùng bùa phép sẽ tồn tại sau khi chết để chế ngự con quái vật, và sợi dây đời sống của người Shamans sẽ tiếp tục nếu cần thiết để giữ cho linh hồn sống động trên cõi giới hiện hữu này; vì không có sự duy trì thì linh hồn sẽ từ từ tan biến và qua bên cõi giới khác, lúc đó không còn gì tồn tại để kiềm chế con ăn linh-hồn.

Gia đình của ông đã đi về bên kia thế giới, ở trong vùng lại không có ai tin câu chuyện ông kể, vì vậy ông quyết định rời bỏ căn nhà đã một lần cùng vợ con sinh sống hạnh phúc để một mình đi vào rừng và dựng lên một căn chồi thô sơ gần cửa hang của con quái vật. Ông sinh sống ở đó và thường xuyên làm bùa phép đọc thần chú, và ngăn ngừa những người muốn vào hang động. Ông ta quyết tâm dành hết cuộc đời của mình để bảo vệ khu vực này không cho con quái vật lộng hành nữa. Vì không có ai tiếp nối coi chừng sau khi ông lìa đời nên ông đã khắc những dấu hiệu bùa chú trên tấm gỗ đậy hang và trên vách tường sau căn chồi đối diện cửa hang, ồn hy vọng rằng nó sẽ giúp giữ linh hồn ông lại sau khi chết cũng như có thể kiềm chế con quái vật trong ngục tù của nó.

....

Mặc dù tôi và Paul đã phá vỡ tấm ván gỗ đậy hang và bùa phép đã khắc trên đó nhưng vẫn còn đủ năng lực để ông trở lại cõi giới hiện hữu này để kiềm chế con quái vật một lần nữa, sau đó những dấu hiệu bùa phép lại hiện lên tươi mới và rõ ràng hơn...

Sau khi đọc nhật ký và hiểu rõ nguồn gốc của những sự việc đã xảy ra, tôi và Paul cảm thấy rất an toàn khi trở lại nơi đây để thám hiểm thêm, và chúng tôi đã tìm thấy cách căn chồi không xa có hai tấm bia đá không tên (có lẽ đó là hai tấm bia đá để kỷ niệm vợ và con gái ông) nằm trên khu đất mà chúng tôi nghĩ rằng đó là căn nhà hạnh phúc mà ông già đã ở giờ đây chỉ còn trơ trội lại mấy cái chân nền.

Chúng tôi không bao giờ kể chuyện này cho người khác nghe, vì ai mà tin chúng tôi chứ?

Cho đến ngày hôm nay tôi vẫn có nhiều nghi vấn chưa được giải đáp. Thí dụ như là con vật đó từ đâu đến? Nó là một con quái vật thiên nhiên của địa cầu, một con ác quỷ, một người ngoại tinh, hay là một con quái vật thời tiền sử? Tại sao con quái vật kia không giết chúng tôi khi chúng tôi bị kẹt ở trong hang... có thể nó không đủ năng lực chăng? Điều kỳ lạ làm tôi đau đầu nhất là tiếng nói của đứa con gái. Có lẽ đó là hồn ma của cô gái con ông già???

Tôi biết rằng trên Địa Cầu này vẫn còn nhiều thứ để cho chúng ta khám phá và tìm hiểu. Có phải thể xác thì vô thường còn linh hồn mới là trường tồn không?

(Hết)
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

Hết chuyện ma lại sợ con ma men
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

Lời Nguyền Của Người Tử Tội


Năm 1821, tại thị xã Newtown Montgomeryshire thuộc nước Wales1, có một người đàn ông tên là John Newton mang tội giết người và được đưa ra trước tòa để thẩm phán. Ðứng trước quan tòa ông ta khẳng định tuyên bố rằng ông là người vô tội, nhưng dựa vào những chứng cớ của hai người mà ông ta nói rằng họ sẽ được lợi ích nếu ông chết đi, cho nên những lời ông nói đều vô hiệu. Cuối cùng ông ta bị kết án và xử tử treo cổ.

Nhìn thẳng vào quan tòa với ánh mắt nẩy lửa, Newton thét lớn:

- TÔI VÔ TỘI! TÔI LÀ NGƯỜI VÔ TỘI! ÐỂ CHỨNG MINH ÐIỀU ÐÓ, TÔI SẼ KHÔNG CHO NGỌN CỎ XANH TƯƠI NÀO MỌC TRÊN MỒ CỦA TÔI. MÃI MÃI KHÔNG CÓ NGỌN CỎ TƯƠI XANH NÀO MỌC TRÊN NGÔI MỒ CỦA TÔIIIII!

Vài ngày sau, John Newton đã bị treo cổ công khai trước quần chúng. Thật là kỳ lạ khi lễ xử tội bắt đầu thì bỗng đâu một cơn bão kéo tới sấm sét vang rền làm những người có mặt tại hiện trường đều ngạc nhiên và lo sợ...

Sau khi ông Newton chết, xác của ông được chôn trên mảnh đất sau một thánh đường thuộc vùng ngoại ô thành phố.

Khu nghĩa địa này là một mảnh đất xanh tươi với những ngọn cỏ được bón phân cắt tỉa mỗi tuần với những mộ bia nằm từng hàng thẳng tắp trong thật đẹp mắt, nhưng từ khi xác của John Newton được chôn ở đây thì miếng đất này không được hoàn mỹ giống như xưa. Ấy là vì giữa một tấm thảm cỏ xanh mướt lại có một khoảng đất hình chữ nhật trơ trọi mọc một loại cỏ dại bò chung quanh theo khuôn khổ của chiếc quan tài nằm bên dưới.

Mỗi ngày những dân cư đi qua đều có thể trông thấy ngôi mộ của Newton vì thế mặc cảm tội lỗi và nỗi đau buồn về một kẻ bị giết oan càng ngày càng tăng dần trong khu thị xã nhỏ này. Ðể xóa đi những cảm giác ấy, chính quyền địa phương đã nghĩ ra một cách nếu cỏ không tự mọc trên ngôi mộ này được thì họ có thể trồng cỏ lên trên đó. Họ đem những thứ đất tốt đổ lên ngôi mộ trải ra cho đều, sau đó họ rải những hạt cỏ lên rồi tưới nước rất cẩn thận. Nhưng nhiều ngày trôi qua không một hạt cỏ nào nẩy mầm.

Và vài tháng sau người ta lại tìm đủ mọi cách để trồng cỏ, cứ như vậy người ta lại trồng cỏ bón phân tưới nước nhưng trải qua nhiều năm một cọng cỏ xanh tươi cũng không thể mọc được trên nấm mồ của người đàn ông Welsh này.

Vào năm 1852 một vị giáo sĩ tên là Robert Mostyn Price đã đứng lên biện hộ cho người đàn ông bị treo cổ.

Ông ta viết:

“Ðã ba năm trôi qua mà chúng ta không thể trồng cỏ trên nấm mồ này cho dù chúng ta đã dùng đủ mọi cách, đủ mọi phương pháp nhưng một cọng cỏ cũng không thể mọc lên. Vì vậy tôi cùng nhiều người khác tin rằng đây là sự chứng minh “vô tội” của người đàn ông đáng thương.”

Nhưng khó có thể làm cho người ta chấp nhận được sự thật rằng quan tòa đã xử án sai lầm để một người đàn ông vô tội phải chết. Cho nên một lần nữa họ lại gắng sức làm cho cỏ mọc trên ngôi mồ của Newton bằng cách đổ lên đó một thứ đất phân thật tốt, rồi cấy những cây cỏ xanh tươi dễ trồng nhất rồi tưới nước và chăm sóc rất kỹ lưỡng.

Mọi người hồi hộp chờ đợi. Cuối cùng thì người ta cũng thấy được những cây cỏ mới cấy bắt đầu trổ lá non; lúc đó ai cũng hớn hở vì cỏ đã mọc được trên nấm mồ Newton rồi như vậy họ sẽ không còn cảm thấy mặc cảm tội lỗi bao trùm trong bầu không khí chung quanh đây nữa. Nhưng tiếc thay chỉ qua một đêm, những loại cỏ dại đã bò lên dầy đặc nuốt chửng mất những cây cỏ xanh tươi vừa mới bắt đầu trổ lá non. Không biết tại sao loại cỏ này lại mọc nhanh như thế? Mọi người không ai có thể hiểu nổi có lẽ chỉ có linh hồn người quá cố nằm bên dưới quan tài mới biết được.

Cũng từ đó không ai màng đến việc trồng cỏ lên ngôi mộ của ông Newton nữa vì họ biết rằng cho dù có trồng thì cũng vô dụng... vì vậy mảnh đất nhỏ xấu xí này tiếp tục đứng vững trong vùng đất xanh mướt màu cỏ non ...

Cho đến thế kỷ sau, năm 1941, một người đến viếng khu nghĩa địa này vẫn có thể chỉ đúng ngay ngôi mồ của Newton, một mảnh đất có nhiều cỏ dại bò ngổn ngang theo khuôn của chiếc quan tài vẫn còn nằm giữa mảnh đất xanh tươi đẹp đẽ, đó là chứng cớ thầm lặng về sự phán xét sai lầm của tòa án với lời nguyền của người đàn ông nước Wales.
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

Vẫn còn à, anh có chuyện ma của Việt Nam không, ma nước ngoài xài hàng mã ngoại tệ chắc khác ma VN quá
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

anh Đức cho thêm mấy đường link nghe kể chuyện ma đi anh, hihi... có âm thanh mới hồi hộp anh à.
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

Cái Thang Máy

Ông phi đội trưởng Stangate đã có đủ mọi thứ để trở thành một người sung sướng. Ông đã ra khỏi cuộc chiến tranh yên lành và khỏe mạnh, với cái danh tiếng vững bàn đạt được trong một binh chủng có nhiều vị anh hung nhất. Ông vừa mới được ba mươi tuổi, một sự nghiệp lớn lao và hoàn mỹ đang mở ra trước mắt ông. Và nhất là mỹ nhân Mary MacLean đang đi vịn vào cánh tay ông và nàng đã hứa với ông rằng suốt cả đời này sẽ ở bên cánh tay đó. Tuy nhiên, một mối lo buồn đang đè nặng lên trái tim ông.
Ông đã không thể tự giải thích điều đó cho ông, và ông đã cố gắng tìm cách lý giải để rũ bỏ nó đi. Bên trên đầu ông, bầu trời xanh thẳm, cũng như mặt biển phía trước ông xanh thẳm, và khắp chung quanh trải ra những những khu vuờn đẹp đẽ cùng với một đám đông những khách nhà du hân hoan vui thú. Và nhất là bộ mặt dịu hiền đang quay về phía ôngvới một sự khẩnkhoản đầy vẻ thắc mắc, Tại sao ông không thể tham gia vào một cảnh quanvui tươi như thế? Ông đã đưa ra nhiều cố gắng nhưng chúng vẫn chưa đỉ để dụ hoặc cái bản năng cấp táo của một tình nương.
- Có việc gì vậy, Tom? Nàng hỏi ông với sự bồn chồn lo lắng. Em nhận thấy có điều gì làm anh buồn bã. Hãy nói cho em biết xem em có thể giúp đỡ anh bằng cách nào đó chăng.
Ông bật cười lớn, đôi chút mắc cỡ.
- Thật là một tội lỗi khi làm hỏng cuôc du ngoạn nhỏ của chúng ta đó! Ông nói. Khi anh nghĩ tới điều này, anh lại muốn tự đánh đòn mình. Em cớ lo sợ, em cưng ạ, vì anh biết những đám mây mù của anh sẽ tan đi trong chốc lát. Anh tìn rằng anh còn đầy đủ khí lực, hình như nghề phi hành đã bẻ gẫy mọi khí lực hoặc đã bảo đảm cho chúng ta đến suốt đời.
- Vậy là không có gì là dứt khoát à?
- Không. Không có gì là dứt khoát cả. đó chính là điều tệ hại. Nếu điều này là đúng, anh sẽ có thể chiến đấu một cách dễ dàng hơn. Đúng là một sự trầm cảm nặng nề ở đây, ở trong ngực và ở trong đầu. Em yêu của anh, anh xin lỗi nhé! Anh là một kẻ thô bạo đã làm em u buồn với những sự ngu ngốc như vậy
- Nhưng em lại muốn được chia sẻsự bực bội nhỏ bé nhất của anh mà!
- Này, nó đã đi khỏim biến mất tàn lụi rồi. Chúng ta không nên nói tới nó nữa.
Nàng ném cho ông một cái nhìn thấu tận tim gan.
- Không, Tom, chỉ cần nhìn vào anh thôi. Hãy nói với em đi, có phải anh thường tự cảm thấy như vậy không? Thật sự anh không có vẻ khỏe mạnh lắm. Anh hãy ngồi xuống đây, anh yêu quí, dưới bong mát và nói cho em biết anh lo buồn về chuyện gì.
Họ cùng ngồi xuống dưới bóng của cây Tháp lớn cao hai trăm mét ở bên cạnh họ.
- Anh có một năng khiếu kỳ cục, ông nói. Anh không nghĩ rằng anh đã nói điều này với bất kỳ một ai. Nhưng khi một sự hiểm nguy tức thì đe dọa anh thì anh bị bao vây bởi những linh cảm kỳ lạ. Chắc chắn là hôm nay, thật kỳ cục. Em hãy nhìn kìa, cái gốc cây thật hiền hòa… Tuy nhiên đây là lần thứ nhất mà sự bực bội này đưa anh tới chỗ nhầm lẫn
- Anh đã cảm nhận thấy nó lúc nào trước đây à?
- Khi anh còn là đứa trẻ con, anh đã cảm thấy nó vào một buổi sáng: suýt nữa anh bị chết đuối vào buổi chiều. Anh đã cảm thấy nó khi một tên trộn lẻn vào Morton Hall và khi cái áo dài của anh bị một viên đạn xuyên qua. Rồi trong cuộc chiến tranh anh đã cảm thấy nó hai lần trước khi bị tập kích thình lình và đã thoát nạn một cách thần kỳ; nó đã nhập vào anh trong lúc anh đang leo lên máy bay của anh. Rồi nó tan biến một cách đột ngột, tựa như một đám sương mù trước ánh nắng mặt trời. Em này, nó đi đó, nó đá đi khỏi rồi! hãy nhìn vào anh! Có thật vậy không?
Đúng thật vậy. Trong vòng một phút, bộ mặt bơ phờ đã biến thành bộmặt trẻ con cười toe toét. Mary bật cười lớn. Rõ ràng là trong tâm hồn của Tom nay chỉ còn sự hoan lác sinh động của tuổi thanh xuân.
- Tạ ơn thựong đế! Ông kêu lên. Mary này, chính là đôi mắt than thương của em đã chữa khỏi bệnh cho anh. Anh không còn có thể chịu dược sự u buồn sầu mông trong cai nhìn của em. Thật là một cơn ác mộng xuẩn ngốc là sao! Bây giờ thì anh sẽ không bao giờ còn tin vào những sự linh cảm của anh nữa. Em yêu quý, chúng ta chỉ còn vừa đủ thì giờ để đi dạo một vòng trước bữa điểm tâm. Chúng ta sẽ đi xem một trò vui trong chợ phiên hay đi xem quay bánh xe lớn hay trên tàu thủy bay, hay xem gì đây?
- Anh nghĩ thế nào về cái Tháp? Nàng hỏi trong khi ngẩng cái mũi xinh đẹp lên. Cái không khí tuyệt diệu ở đó và cái toàn cảnh từ trên cao nhìn xuống chắc chắn sẽ xua đuổi những đám mây cuối cùng ra khỏi tâm trí anh.
Ông nhìn đồng hồ của ông.
- Đã quá trưa rồi nhưng anh nghĩ là chúng ta có thể làm việc đó trong một giờ đồng hồ. Này thang máy không vận hành. Anh bán vé, chuyện gì xảy ra vậy?
Người nhân viên lắc đầu gtrong khi chỉ vào một toán nhỏ đang tập hợp trước lối vào.
- Họ đang đợi, thưa ông. Thang máy bị hỏng, nhưng lúc này thì bộ phận máy móc đang được kiểm tra lại và tín hiệu sẽ được phát ra trong một vài phút. Nếu ông nhập bọn với những người khác, tôi xin hứa việc đó sẽ không lâu đâu.
Khi họ vừa chiếm được chỗ đứng trong nhóm người thì cái vách thép của thang máy lướt đi trên cái cạnh. Thế là đã có hy vọng cho tương lai gần cận. Các du khách ùa vào chỗ mở ngỏ và chờ đợi trên sân. Họ cũng không đông lắm vì đám đông thường xuất hiện nhiều nhất vào buổi chiều, nhưng đó là những người miền Bắc khả ái và vui vẻ, họ sống những ngày nghỉ ỏ Northam. Tất cả bọ họ đều nhìn lên không, và theo dõi một cách chăm chú một người đàn ông đang tụt xuống dọc theo cái sườn bằng thép. Đây không phải là một trò chơi của trẻ con, nhưng nếu anh ta đi cũng nhanh như một người thế tục bình thường trên các bậc của một cái cầu thang.
- Trời oi! Người bán vé nói khi chính anh ta cũng ngẩng đầu lên nhìn. Sáng hôm nay Jim đã làm việc gấp gáp.
- Người đó là ai? Thiếu tá Stangate hỏi.
- Thưa ông, đó là Jom Barnes, người thợ giỏi nhất đã từng leo lên một cái sàn. Anh ấy gần như lúc nào cúng sống ở trên đó. Tất cả những trôn đinh ốc, những đinh con tán đều nằm dưới sự coi sóc của anh ấy. Anh chàng Jim này là một thứ người làm cho ta cảm kích.
- Nhưng chớ có tranh luận về tôn giáo với anh ta. Một người nào đó trong nhóm nói.
Người nhân viên bật cười lớn.
- À, vậy là ông có biết anh ta hả? Người ấy nói. Không, tốt nhất là ông đừng bàn cãi về tôn giáo với anh ta.
- Tại sao? Viên sĩ quan hỏi.
- Bởi vì anh ấy coi những câu chuyện về tôn giáo là rất nghiêm trọng. Anh ấy là ánh sáng của giáo phái của anh ấy.
- Không có gì là khó khăn trong việc đó. Người vừa nói xong lại cất tiếng nói. Người ta bảo tôi rằng trong giáo hội của anh ta chỉ vỏn vẹn có sáu người. anh ta tưởng tượng rằng bầu trời không lớn hơn cái nghị hội của riêng anh tam và anh loại ra ngoài tất cả những nghị hội khác.
- Tốt nhất là đừng nói với anh ta trong khi tỏng tay anh ta đang cầm cái búa kia. Người bán vé thì thầm. Chào Jim, sáng nay có khỏe không?
Người đàn ông lướt nhanh dọc theo quãng mười mét cuối cùng rồi y lấy thăng bằng đứng yên trên một thanh ngang để nhìn xuống nhóm nhỏ người trong thang máy. Với cách y đứng ở đó, trong bộ quần áo bằng da, với những cái kìm và các dụng cụ khác đeo lủng lẳng ở cái dây thắt lưng nâu. Y vẫn giữ được cái nhìn của một tay nghệ sĩ. Rất cao, rất gầy, chắc là y phải có sức vóc của một anh khổng lồ. Y có những chân tay dài, mềm dẻo, một bộ mặt đẹp trai, vừa cao quý, vừa khắc khổ, cặp mắt và mái tóc đen sậm , một cái mũi cong, một chòm râu sậm. Y giữ chắc thăng bằng bằng một bàn tay gân guốc, trong khi bàn tay kia làm lắc lư trên đầu gối y một cái búa bằng thép.
- Mọi sự đều sẵn sàng ở trên đó, y nói. Tôi sẽ đi lên cùng quý vị.
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

Y nhảy từ cái thanh ngang xuống và nhập bọn với các du khách trong cái thang máy.
- Tôi nghĩ rằng lúc nào ông cũng đang canh chừng chúng phải không? Mary MacLean nói.
- Thưa cô, chính vì việc đó mà tôi được trả lương. Từ sáng tới tối, và thường khi từ tối tới sáng, tôi phải ở đây. Có nhiều lần, tôi cảm thấy hình như tôi không phải là một con người mà là một con chim trời. Những con chim bay quanh tôi, những đồ súc vật, khi tôi đứng trên những giàn đỡ và chúng kêu với tôi hàng đống tiếng cho tới khi ngay chính tôi cũng bắt đầu kêu lên như chúng.
- Đây là một công việc rất quan trọng! Viên thiếu tá nói lẩm bẩm trong khi nhìn mặt nghiêng bằng thép của cái Tháp đang nổi bật lên rõ ràng trên bầu trời xanh
- Đúng vậy, thưa ông. Và không có một đinh vít hay một trôn ốc nào mà không nằm dưới sự trách nhiệm của tôi. Đây là cái búa của tôi để làm cho chúng kêu lên rõ ràng và cái mỏ lết vặn đinh ốc để xiết chặt chúng lại. Giống như vị chúa tể trên mặt đất, tôi là, phải, tôi là chúa tể của cái Tháp với đủ quyền sinh sát. Mà đúng vậy, quyền sinh sát!
Động cơ thủy lực đã bắt đầu chạy, cái thang máy chuyển động rất chậm chạp và bắt đầu đi lên. Toàn cảnh huy hoàng của bờ biển phơi bày ra mỗi lúc một rõ ràng. Những hành khách đã quá mải mê đến nỗi không một mảy may nhận thấy là cái thang máy đã đột ngột dừng lại giữa những đầu thang ở khoảng một trăm sáu mười mét bên trên mặt đất. Barnes, người thợ máy làu bàu rằng chắc đã có gì trục trặc ở trên đó, y nhảy như một con mèo vào cái lỗ hổng toang hoác ngăn cách họ với tấm lưới sắt của cái sườn bằng kim loại, và y biến dạng trong khoảng không. Nhóm người nhỏ bị treo lơ lửng giữa trời và mắt đất đã mất đi đôi chút tính em lệ của dân Anh, khi gặp những tình huống như thế, và các du khách bắt đầu trao đổi cảm tưởng của họ. Một cặp trai gái tên là Billy và Dolly nói với các bạn đồng hành rằng họ là những minh tinh của chương trình tại trường đua ngựa và họ làm khuây khỏa những người đứng bên bằng sự lém lỉnh của họ, một người đàn bà tươi mát, tròn trĩnh, đứa con trai của bà, hai cặp vợ chồng làm thành nhóm thính giả say mê của họ.
- Cháu thích làm thủy thủ anh? Billy, nhà hài kịch hài hước nói khi trả lời một nhận xét của đứa bé. Coi chừng đó, đồ nhóc con, cháu sẽ là một xác chết đẹp nếu cháu không đề phòng. Cháu hãy nhìn y đứng trên cái rìa kia kìa! Vào một giờ phút như thế, tôi không thể chịu đựng được việc trông thấy cảnh đó.
- Từ giờ nào trở đi thì ông mới có thể chịu đựng được? Một người đi chào hàng cao lớn hỏi.
- Trước lúc buổi trưa thì các khí lực của tôi chẳng ra trò trồng gì. Thật tình khi tôi nhìn xuống bên dưới và khi trông thấy mọi người giống như các chấm đen nhỏ li ti thì tôi sợ hãi vô cùng. Trong gia đình tôi, tất cả mọi người đều giống nhau, vào buổi sáng.
- Tôi có cảm tưởng rằng, Dolly nói, nàng là một phụ nữ trẻ da dẻ hồng hào, tất cả bọn họ đã giống nhau lúc tối hôm qua.
Mọi người đều cười lớn.
- Billy bị đo ván rồi. Chàng kịch sĩ hài hước tuyên bố. Nhưng nếu người ta chế nhạo gia đình tôi, tôi sẽ rời khỏi phòng.
- Thực sự đúng là đã tới giờ mà chúng ta rời khỏi căn phòng, người đi chào hàng nói, ông ta có vẻ bực bội. Thật là xấu hổ cho cái kiểu mà họ giữ chúng ta trên không thế này! Tôi sẽ viết thư về công ty.
- Cái nút bấm chuông ở đâu? Billy hỏi. Tôi sẽ bấm chuông.
- Và gã... gã con trai? Mary MacLean hỏi.
- Người bán vé, người tài xế, người... tôi không biết ai đã làm cho chiếc ô tô buýt cũ kỹ này lên xuống? Có phải họ bị trục trặc về xăng? Có phải họ bị gãy lò xo lớn? Hay là cái gì đây?
- Dù sao đi nữa thì cảnh quan cũng rất đẹp! Viên thiếu tá nói.
- Xin thú thật về cảnh quan thì tôi đã có khá nhiều rồi! Billy nói. Tôi chỉ muốn đi xuống thôi!
- Tôi đã bắt đầu cảm thấy bực bội rồi đó! Người đàn bà tươi mát và tròn trĩnh lêu lớn. Tôi hy vọng là không co gì bị gãy trong cái thang máy.
- Dolly, hãy nắm lấy vạt áo của tôi! Tôi sẽ nhin bên trên cái rìa. Ôi, lạy Chúa, tôi phát ốm lên đây, tôi buồn nôn đây! ở phía dưới có một con ngựa, nó không lớn hơn một con chuột. Và tôi không trông thấy người nào quan tâm tới chúng ta. Cái ông già tiên tri cùng lên với chúng ta đó đâu rồi?
- Ông ấy đã để cho chúng ta rơi xuống khi ông ấy biết trước là chúng ta sẽ có sự truc trặc.
- Vậy thì hãy nói đi, Dolly nói xen vào, nàng có vẻ bối rối, tôi không thấy chuyện này là dễ chịu đâu! Chúng tta đang ở một trăm sáu mươi mét trên không trung, tôi có cảm tưởng là chúng ta sẽ chịu thế này suốt cả ngày. Tôi đang được chờ đợi cho cuộc trình diễn buổi sảng ở Trường Đua ngựa. Nếu tôi không có mặt khá sớm ở dưới đó thì mặc kệ công ty. Tôi đã được dán quảng cáo trong khắp cả thành phố cho một bài hát mới.
- Một bài hát mới à? Bài nào vậy hả Dolly?
- Một chậu gừng chính cống, tôi đoán chắc là thế! Bài đó có tên là “Trên đường tới Ascot”. Để hát bài này tôi đã có một cái mũ đường kính một thước hai.
- Vậy thì Dolly này, hãy làm cuộc tổng diễn tập trong khi chúng ta chờ đợi!
- Không! Vị cô nương trẻ kia không hiểu đâu.
- Tôi rất thích thú được nghe hát bài đó! Mary MacLean nói lớn. Nhất là cô đừng thấy khó chịu vì tôi!
- Những lời hát được viết trên cái mũ. Tôi không thể hát những câu thơ mà không có cái mũ, nhưng có một điệp khúc thú vị:
“Nếu bạn muốn có một bùa hộ thân nhỏ bé
khi bạn đi trên đường tới Ascot
hãy sờ mó vào người đàn bà có cái mũ to như bánh xe bò...”
Nàng có một giọng dịu dàng và ý thức về vần điệu.
- Bây giờ mời tất cả mọi người cùng hát! Nàng nói lớn.
Và cái nhóm nhỏ những người tình cờ hội ngộ đó ráng hết hơi sức hát theo nàng.
- Chắc là chúng ta sẽ phải đánh thức một người nào đó dậy! Billy nói. Không nên à? Vậy thì tất cả chúng ta cùng la lên!
Sự cố gắng thật là mạnhmẽ, nhưng vô hiệu quả. Không có tiếng trả lời từ bất cứ nơi nào. Ban quản trị ở bên dưới hoặc là không biết hoặc là bất lực.
Các hành khách bắt đầu lo sợ. Người đi chào hàng to lớn đã mất hết sắc diện hồng hào. Billy vẫn còn gắng gượng nói bông đùa, nhưng không thành công. Viên sĩ quan y phục màu xanh nước biển tức thì thay thế anhvới tư cách trưởng nhóm. Tất cả mọi người đều nhìn ông ta, cầu cứu ông ta.
- Thưa ông, ông khuyên chúng tôi nên làm gì? Ông không nghĩ rằng có sự hiểm nguy là bất thần bị rơi xuống phải không?
- Không một chút nào! Nhưng dù sao thì cũng rất khó chịu khi cảm thấy bị kẹt ở đây. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ có thể nhảy một cái vượit qua khoảng không này để đứng lên giàn đõ rồi xem cái gì bị trục trặc...
- Không, Tom? Vì lòng kính Chúa, cin đừng rời bỏ chúng tôi.
- Có những người có lòng dũng cảm vững vàng! Billy nói, nhảy qua trên một khoảng trống mổttăm sáu mươi mét.
- Tôi tin rằng trong thời chiến tranh, vị trượng phu này đã làm những việc còn tệ hại hơn thế.
- Nhưng tôi, tôi sẽ khôngl àm việc đó! Ngay cả nếu họ dán cho tôi những chữ to như thế này trên những tấm bích chương của họ. Đó là công việc của lão thày bói già. Tôi không muốn làm lão ta bị thất nghiệp dù tôi chắng tốn kém gì.
Ở ba mặt cái thang máy có những vách bằng gỗ với những cửa sổ để ngắm phong cảnh. Mặt thứ tư nhìn ra biển thì được mở ngỏ. Satangate cúi mình xuống chỗ đó để nhìn ra khoảng không. Từ trên chỗ cao hơn lọt tới tai ông một tiếng động khô khan, đặc biệt âm vang của kim loại, như thể một sợi dây đàn rất căng vừa được đẩy lên. Một khoảng cách nào đó phía trên ông, có lẽ chhừng ba mươi mét, ông chợt trông thấy một cánh taydài, nâu, đầy bắp thịt đang vung vẩy một cách điên cuồng giữa những sợi dây cáp. Ông không trông thấy cáiđầu của người đó nhưng ông đã bị mê hoặc bởi cái cánh tay trần đang kéo, víu và đẩy.
- Mọi việc đều tôt đẹp, ông loan báo. Có một người nào đó đang làm việc trên đó để xếp đặt lại mọi sự đâu vào đó.
Mọi người đều thở phào nhẹ nhõm.
- Đó là ông thầy bói già Isaie, Billy vừa nói vừa uốn éo cái cổ. Tôi không trông thấy lão ta nhưng cái cánh tay của lão thì có thể nhận ra trong hàng ngàn cái cánh tay. Lão ta có cái gì trong tayvật? Người ta sẽ nói là một cái tuốc-nơ-vít... Không, lạy Chúa, đó là một cai dũa!
Trong khi anh ra nói thì một tiếng động khô khan và âm vang nữa vang lên trong khoảng không, vầng trán của viên sỹ quan nhăn lại.
- Thật kỳ quái, người ta có thể nói đúng là tiếng động giống như tiếng động mà sợi dây cáp bằng thép của chúng tôi phát ra khi nó đứt hết sợi này đến sợi khác ở Dixmude. Cái thứ này sẽ bi thảm đến thế nào? Ơ kìa! Các ông định làm gì đây?
Người đàn ông đã làm xong công việc; y thong thả đu xuống dọc theo cái sườn bằng sắt.
-... Y tới kìa, Stangate loan báo cho các bạn đồng hành đang ngỡ ngàng của ông, mọi sự đều tôt đẹp, Mary ạ! Các ông, các bà đừng sợ sệt! Thật là xuẩn ngốc để nghĩ rằng y tìm cách là yếu sợi dây đang nắm giữ chúng ta.
Ở trên không xuất hiện một đôi giày. Rồi tới cái quần bằng da, cái thắt lưng với các dụng cụ đeo lủng lẳng, cái thân mình nổi vằn các bắp thịt, và cuối cùng là bộ mặt hung hãn, sạm đen của anh công nhân. Y đã cởi bỏ áo ngoài, và cái áo sơ mi không ài cúc phơi trần cái thân mình đầy lông lá. Ở trên cao một tiếng rung động nữa vang lên, cũng vẫn khô khan, cũng vẫn giống như một tiếng lách cách. Người đàn ông đó tụt xuống không vội vã. Y lấy thế thăng bằng đứng trên cái giàn đỡ chặn ngang, tựa vào cái sường và đứng yên ở đó, hai tay khoanh lại, chằm chằm nhìn các hành khách chen chúc trên sàn đứng của thang máy.
- Ê này! Stangate gọi. Có sự cố gì vây?
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

Người đàn ông vẫn vô cảm và im lặng, cái nhìn trừng trừng của y có một vẻ gì có tính đe dọa.
Viên phi công nổi giận
- Anh trở nên điếc rồi anh? Ông quát lên với y. Anh định để chúng tôi phải treo ở đây bao lâu nữa đây?
Người đàn ông đó vẫn không nhúc nhích. Y có điệu bộ của một con quỷ dữ.
- Anh con trai này, tôi sẽ khiếu nại về anh đó! Billy nói với một giọng run rẩy. Sự việc sẽ không nằm yên ở đó đâu, tôi hứa với anh điều này!
- Hãy nghe tôi nói đây! Viên sĩ quan quát lớn. Chúng tôi có mang theo các phụ nữ và anh đang làm cho họ sợ hãi. Tại sao chúng tôi lại bị kẹt ở đây? Có phải thang máy bị hỏng không?
- Các ông ở đây, bởi vì tôi đã chêm một cái đòn cân vào sợi dây cáp phía trên các ông.
- Anh đã làm nghẽn đường dây hả? Tại sao anh lại dám làm một việc như thể? Có phải đó là một sự đùa cợt hay là cai gì? Rút ngay đòn cân đó ra nếu không thì mặc kệ anh...
Người đàn ông không trả lời gì cả
-... Anh có nghe thấy lời tôi nói không? Tại sao anh không trả lời? chúng tôi đã chịu đựng khá nhiều rồi, tôi đoan chắc với anh về điều đó!
Bị một cơn hoảng hốt độe ngột, Mary MacLean nắm lấy tay vị hôn phu của nàng.
- Ôi, Tom! Nàng kêu lên. Hãy nhìn mắt y kìa! Hãy nhìn cặp mắt khủng khiếp của y! Đó là một thằng điên!
Người công nhân đột nhiên phục hồi khả năng nói của y. Bộ mặt u ám của y đã thay đổi dưới sự bùng nổ của cơn cuồng nộ. Cặp mắt y sáng rực lên như những cục than hồng, y vung vẩy một cánh tay.
- Xem đây! Y quát lên, những người bị coi là điên dại đối với lũ trẻ con ở đời này thật sự là những đứa con của Chúa và là những cư dân của miếu đường trong nội tâm. Ta là người sẵn sàng đứng ra làm chứng ở cấp độ tối cao, vì thật ra bây giờ đã tới ngày mà người hèn mọn sẽ được xưng dương và kẻ ác bị loại trừ trong tội lỗi của nó!
- Mẹ! Mẹ! Thằng con trai nhỏ phát điên khùng kêu lên.
- Kìa, mọi việc đều tốt đẹp, Jack ạ! Người phụ nữ tươi mát và tròn trịa nói. Tại sao anh lại muốn làm cho đứa bé này phải khóc? À, anh là một kẻ dị hợm bảnh bao, đúng thế!
- Thà để cho nó khoc bây giờ còn hơn là phải khóc ở màn đêm tăm tối bên ngoài. Hãy để cho nó tìm sự cứu rỗi trong khi hãy còn đủ thì giờ!
Viên sĩ quan đo lường khoảng trống bằng một con mắt lão luyện. Nó phải tới hai mét rưỡi, và gã điên kia sẽ có thể làm cho ông chao đảo trước khi ông có đủ thì giờ đặt chân lên. Đây sẽ là một ý định vô vọng. Ông co nói một vài lời có tính cách xoa dịu.
- Này cậu trai trẻ của ta, cậu đã đưa sự đùa cợt quá xa rồi đó! Tại sao cậu lại muốn làm hai chúng ta? Hãy leo lên trên ấy đi và rút cái nêm ra. Chúng ta sẽ không nói tới chuyện này nữa...
Một tiếng động khác của sự rách đứt laịiphát ra từ trên cao.
-... Lạy chúa, sợi dây cáp sắp đứt rồi! Stangate la lớn. Này! Hãy đứng sang một bênm tôi sẽ leo lên để xem việc gì đang xảy ra.
Anh công nhân đã rút cái búa ra khỏi thắt lưng y và y vung vẩy cái búa một cách điên cuồng.
- Hãy lùi lại đó, anh trai trẻ! Lùi lại đi! Nếu anh nhảy lên anh sẽ chỉ làm cái chết của anh tới mau hơn thôi!
- Tom, nhân danh Chúa, đừng có nhảy lên! Cấp cứu! Cấp cứu! Các hành khách đồng thanh la hét. Gã đàn ông đó mỉm cười vẻ hung ác.
- Không có ai sẽ tới cứu giúp các người đâu. Nếu họ có muốn tới giúp đỡ các người thì họ cũng sẽ không htể tới được. Các người sẽ tỏ ra khôn ngoan hơn khi xét lại lưông tâm mình để khỏi bị ném vào hỏa ngục muôn đời. Đúng, hết sợi này tới sợi nọ, sợi dây cáp treo các người đang giãn ra. Nghe đây. Lại một sợi nữa bị đứt đó! Mỗi khi có một sợi bị đứt, sự căng lại gia tăng lên những sợi khác. Các người còn đủ số sợi cho năm phút nữa và sau đó là cõi vĩnh hằng.
Một tiếng rên rỉ kinh hoàng nổi lên từ nhóm các tù nhân của cái thang máy. Stangate cảm thấy một lớp mồ hôi lạnh trên trán ông khi ông luồn cánh tay quanh thân mình người thiếu nữ đang lảo đảo. Nếu ông có thể làm cho con quỷ chứa đầy thù hận này sao lãng đi chỉ trong một lát thôi thì ông sẽ nhảy lên và đánh liều với số mạng trong một trận cận chiến.
- Nghe đây, anh bạn! Leo lên đi và hãy cắt đứt sợi dây cáp nếu anh muốn! Ông la lên. Chíng tôi không thể làm được điều gì. Anh là kẻ mạnh nhất. Leo lên đi! Và mong rằng mọi chuyện sẽ chấm dứt!
- Để anh có thể nhảy lên đây mà không gặp nguy hiểm hả? Gã đàn ông cưồi khẩy. Ta đã làm chấn động tất cả rồi, ta chỉ còn phải chờ thôi.
Sự phẫn nộ tràn đầy tâm trí viên sĩ quan trẻ tuổi.
- Đồ đạo tặc! Ông hét lên với y. Tại sao người còn đứng đất nhe răng ra cười. ta sẽ cho ngươi một vật nào đó để cười, chính ta đây. Đưa cho tôi cái ba-toong của người nào đó!
Gã đàn ông vung vẩy cái búa của y.
- Tới đây, vật thì hãy tới đây! Hãy trình diện trước vị quan tòa của anh!
- Y sẽ giết anh, anh Tom! Ồ không, toi van xin anh, nếu chúng ta phải chết thì ít nhất là sẽ cùng chết với nhau!
- Thưa ông, ở vào địa vị ông thì tôi sẽ không mạo hiểm trong việc này! Billy nói. Y sẽ đập lên đầu ông trước khi ông đặt được chân lên. Cố chịu đựng đi, Dolly! Sự ngất xỉu sẽ không dàn xếp được việc gì cả. Thưa cô, cô hãy nói với ông ấy đi. Có lẽ ông ấy sẽ nghe lời cô.
- Tại sao anh muốn làm hại chúng tôi? Mary hỏi. Chúng tôi đã làm gì hại anh bao giờ? Tôi tim chắc rằng anh sẽ phải tội sau đó, nếu sự bất hạnh xảy ra cho chúng tôi. Bây giờ anh hãy tỏ ra tử tế và biết điều, và giúp cho chúng tôi đi xuống.
Trong một vài khoảnh khắc, cặp mắt hung tợn của gã đàn ông dịu đi trước bộ mặt dịu hiền đang nhìn y. Rồi diện mạo y lại trở nên cứng rắn.
- Bàn tay ta là dành cho công việc này, hỡi người đàn bà kia. Không phải việc của người đầy tớ là bỏ bê nhiệm vụ của mình.
- Nhưng tại sao đó lại là nhiệm vụ của anh?
- Bởi vì một tiếng nói, trong đáy lòng ta xác nhận điều đó. Ta đã nghe thấy tiếng nói đó lúc ban đêm, và cả lúc ban ngày nữa. Khi ta nằm một mình trên giàn đỡ và khi ta trông thấy bọn gian ác bên dưới chân ta, trong các đường phố, kẻ nào cũng hối hả trong một mục đích xấu xa. “John Barnes, John Barnes, tiếng nói bảo ta, mii ở đây để phát một tín hiệu cho cái thế hệ của những kẻ tội lỗi! Một tín hiệu để chỉ cho chúng thấy rằng chúa đã nhìn thấy và kẻ có tội lỗi sẽ bị phán xét”. Ta là ai mà dám bất tuân lời nói của Chúa?
- Tiếng nói của quỷ dữ, Stangate đính chính. Cô thiếu nữ này đã mắc những tội lỗi gì để bắt buộc người phải phàm cho họ chết?
- Anh cũng giống như những người khác. Không tốt, mà cũng không xấu. Suốt cả ngày, họ đi trước mặt ta, hết toán này đến toán khác, với những tiếng la lối ngu xuẩn, những bài hát điên khùng và những lời nói lảm nhảm vô ích của họ. Tư tưởng của họ bị cột chặt vào những mục đích của xác thịt. Đã quá lâu rồi ta đã đứng tách ra, đã quá lâu rồi ta không thèm biểu lộ! Nhưng bây giờ thì ngày cuồng nộ nó đã tới và sự hiến tế đã sẵn sàng. Chớ tưởng rằng một giọng lưỡi của đàn bà sẽ làm ta từ bỏ bổn phận của ta!
- Tất cả đều vô ích thôi! Mary kêu lớn. Vô ích! Tôi trông thất sự chết trong mắt y!
Một sợi nữa của dây cáp lại đứt.
- Các người hãy sám hối đi! Gã điên quát lên, còn một sợi nữa và đó là sự kết thúc!
Thiếu tá Stangate có cảm tưởng là ông đang sống trong một cơn ác mộng ly kỳ, khủng khiếp. Có thể nào là sau bao lần thoát chết trong cuộc chiến tranh, mà luc này ở giữa nước Anh thanh bình, ông lại phải nằm dưới quyền sinh sát của một thằng điên, và vị hôn thê của ông, người mà ông mong được bảo vệ chống lại ngay cả cái bóng của sự hiểm nguy lại là nạn nhân của gã điên khùng khủng khiếp này? Tất cả lòng dũng cảm, tất cả sự cường tráng của ông đều căng thăng trong một nỗ lực siêu phàm.
- A, chúng ta sẽ không chết như những con cừu trong lò sát sinh! Ông hét lên trong khi lao hết trọng lượng của ông vào một trong các bức vách gỗ của thang máy và lấy chân đạp lên phía trên. Hãy xông tới đi các bạn! Đạp lên trên! Đó chỉ là sự ghép lại của các tấm ván. Nó lung lay rồi, làm cho tấm ván đổ xuống! Được rồi. Tất cả mọi người cùng làm một lần nữa! Đó! Bây giờ tất cả cái vách! Đẩy sập nó xuống! Tuyệt diệu...
Cái vách ngang của căn phòng nhỏ đã bị đẩy sập và bung ra những mảnh gỗ bay vào khoảng không. Barnes nhón một bước vũ điệu trên giàn đỡ, cái búa ở trên không.
- Chớ có vượt qua! Y hét lớn. Không làm gì được đâu! Chắc chắn là ngày ấy đã tới!
- Từ chỗ này tới giàn đỡ không quá sáu mươi phân. Viên sĩ quan quát lên. Hãy bước qua đi! Mau lên! Mau lên! Tất cả mọi người! Tôi sẽ khống chế con quỷ này!
Ông giật lấy cái ba-toong kếch xù của người chào hàng và ông đứng đối diện với gã điên khùng, thách y nhảy xuống.
- Bây giờ đến lượt ngươi đó, anh bạn! Ông rít lên, tới đây, ngươi và cái búa của ngươi. Ta đợi ngươi đó!
Ở phía trên đầu ông, ông nghe thấy một tiếng lách cách khô khan nữa và cái sàn đứng mảnh mai bắt đầu chao đảo. Ông liếc mắt về phía sau, các bạn đồng hành của ông tất cả đều bình yên và mạnh khỏe trên cái giàn đỡ ngang. Trông họ giống như một hàng những người bị đắm tàu đang kinh hoàng. Họ bám lấy tấm lưới thép. Nhưng chân họ thì ở trên tấm giàn đỡ bằng sắt. Với hai bước chân và một cái nhảy, ông đã tới bên cạnh họ, cũng trong lúc đó, tên tội phạm vung vẩy cái búa, nhảy xuống sàn đứng của thang máy. Họ trông thấy y ở đó, nét mặt dúm dó, hai mắt tóe lửa đang cố đứng vững trên cái sàn lắc lư. Một giây đồng hồ sau đó, họ không còn trông thấy gì nữa, trong một tiếng lách cách hung bạo, cái thang máy và y đã biến dạng. Một sự yên lặng dài, rồi tới một tiếng động nặng chịch và tiếng loảng xoảng vỡ của một sự rơi khủng khiếp ở mãi xa.
Mặt trắng bệch ra vì sợ hãi, những người được thoát nạn còn bám chặt lấy những thanh thép lạnh lẽo và nhìn xuống đáy của cái hố sâu toang hoác. Viên thiếu tá phá tan sự im lặng.
- Bây giờ họ sẽ tới kiếm chúng ta! Chúng ta đã được cứu thoát! Ông nói lớn trong lúc lau mồ hôi trên trán nhưng nhờ ơn Chúa, chúng ta đã thoát nạn rồi.
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

Trang nhật ký đẫm máu

Phần 1.


Trong khi cô sắp sửa bán căn hộ sang trọng tọa lạc tại khu Manhattan, Lacey Farrell, một nhà địa ốc trẻ, là nhân chứng vụ án mạng của bà chủ nhà. Thế mà bà này lại tâm sự cho cô biết về cái chết của Heather, đứa con gái của bà và là một nghệ sĩ trẻ của Broadway trong một vụ tai nạn xe hơi.
Lacey biết quá nhiều nên cuộc sống của cô bị xáo trộn. Được cảnh sát che chở, bắt buộc phải dọn đi nơi khác và thay đổi lý lịch, mặc dù vậy cô vẫn bị tên thủ phạm tìm ra tông tích. Một cuộc tìm kiếm của kẻ giết người chuyên nghiệp và cuộc săn đuổi bắt đầu.

Sau đó, Lacey cố tự an ủi mình là nếu như cô đến sớm hơn vài giây, không những cô không giúp gì được cho Isabelle, mà trái lại cô còn chết chung với bà ấy.
Nhưng sự việc xảy ra hoàn toàn khác. Dùng chiếc chìa khóa để cho khách coi nhà, cô đã vào trong căn hộ trên đường 70 phía Đông và gọi tên Isabelle đúng vào cái lúc bà này hét lên «Không … !» và sau đó là một tiếng súng nổ.
Hoặc bỏ chạy hoặc phải trốn, Lacey không hề do dự, cô đóng cửa, vội vã chui vào núp trong ngăn tủ treo quần áo nơi cửa ra vào. trước. Trước khi cô kịp đóng kín cửa, một người đàn ông tóc vàng ăn mặc rất sang trọng đã chạy xuống cầu thang. Qua khe hở, cô nhìn thật rõ bộ mặt hắn ta và hình ảnh đó lập tức in sâu vào trong tâm trí cô. Nói cho đúng, cô đã từng thấy người này rồi. Nhưng nét mặt đó bây giờ trở nên lạnh lùng và độc ác. Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là người mà cô đã cho coi căn hộ vài giờ trước đây, ông Curtis Caldwell dễ thương, người xứ Texas.
Từ trong chỗ trốn, cô nhìn người kia đi ngang qua thật nhanh, tay phải cầm một khẩu súng, còn ở nách trái thì kẹp một bìa hồ sơ bằng da. Hắn ta mở cửa ra vào và hối hả chạy ra ngoài.
Các thang máy và cầu thang cấp cứu nằm ở đầu kia hành lang. Lacey biết là thế nào Caldwell cũng sẽ nghi người mới vào nhà vẫn còn có mặt ở đây. Do bản năng tự vệ thôi thúc, cô phóng người ra khỏi tủ quần áo để đóng mạnh cánh cửa sau lưng hắn ta. Người đàn ông này liền xoay người lại và trong một khoảnh khắc quái ác, hai ánh mắt đã giao nhau , ánh mắt lạnh lùng của ông ta xóay vào mắt nàng. Hắn nhảy lại cánh cửa nhưng Lacey đã nhanh tay chốt được cánh cửa ngay lúc hắn tra chìa khóa vào ổ.
Chết cứng vì hoảng sợ, cô đứng tựa vào cánh cửa, run lẩy bẩy khi thấy nấm cửa được vặn xoay qua lại. Cô thầm cầu xin cho Caldwell không có cách nào khác để vào trong nhà.
Cô phải báo cho cảnh sát mới được.
Cô phải cầu cứu một ai đó
Isabelle ! Cô nghĩ đến người này. Chắc chắn là chínhn bà đã hét lúc nãy. Bà có còn sống không?
Tay lướt trên tay vịn cầu thang, Lacey phóng bốn nấc một lên cầu thang được phủ thảm dày, băng qua một phòng nhỏ màu mận và ngà, nơi mà nhiều lần cô đã nói chuyện với Isabelle, nghe bà ta nhai đi nhai lại hết sức bền bỉ rằng bà không tin vào cái chết của cô con gái Heather của mình, dù bề ngoài nó có vẻ đơn thuần chỉ là một tai nạn xe hơi.
Hoảng sợ với những ý nghĩ trên, cô chạy vào trong phòng. Isabelle nằm ngang trên giường, người co rút lại, mắt mở trừng bàn tay đẫm máu bấu vào một xấp giấy ló dưới cái gối để cạnh đó. Một trang giấy bay lơ lửng trên không do ngọn gió thổi xuyên qua một cánh cửa sổ được mở.
Lacey quỳ gối xuống: «Isabelle » - cô thì thầm. Có quá nhiều điều mà cô muốn nói ra, nhưng gọi một chiếc xe cứu thương chẳng hạn thì mọi chuyện sẽ ổn thôi, nhưg cô không thốt nên lời. Đã quá muộn rồi, Lacey biết như thế, vì Isabelle đang bước vào cõi chết.
Cảnh tượng này ám ảnh cô trong nhiều đêm. Vẫn giấc mơ đó: cô quỳ gối cạnh Isabelle, nghe những lời trăn trối của bà ta. Isabelle nói với cô về quyển nhật ký, van nài cô cầm lấy các trang giấy. Cùng lúc đó, có một bàn tay đặt trên vai cô, cô ngước mặt lên. Tên sát nhân đang đứng trước mặt cô, vẻ mặt lạnh lùng chĩa họng súng ngay trán cô và bóp cò.
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)


Phần 2

Đó là tuần sau ngày lễ Lao Động, tiếng chuông điện thoại reo không ngớt trong văn phòng làm việc của công ty Parker & Parker. Lacey cảm thấy thời gian rảnh rỗi của mùa hè đã thật sự chấm dứt. Thị trường địa ốc của khi Manhattan tháng vừa qua tệ hại một cách bất thường, nhưng công việc làm ăn sẽ mau chóng bắt nhịp lại thôi.
- Cũng không lấy gì làm sớm cho lắm- Cô nói với Rick Parker khi anh này đêm một tách cà phê vào trong phòng làm việc cho cô.- Từ tháng Sáu, tôi chưa có được một giao dịch nào hấp dẫn hết. Tất cả những khách hàng mà tôi tiếp xúc đã bỏ đi Hampton hay Cape Code, nhưng cũng may là họ vừa trở lại thành phố. Tôi đã tận hưởng tắng nghỉ hè bất đắc dĩ này và giờ đây tôi phải xắn tay áo để làm việc cật lực mới được.
Cô cầm tách cà phê lên.
- Cám ơn. Tôi rất cảm kích khi thấy người thừa kế được chỉ định của công ty này chăm lo cho tôi như thế.
- Tôi rất vinh hạnh khi làm việc đó mà. Cô trông khoẻ khoắn đấy, cô Lacey.
Cô cố gắng không để ý đến vẻ mặt cảu Rick. Cô có cảm tưởng là bằng ánh mắt, Rick lúc nào cũng muốn lột trần cô ra. Khá đẹp trai, được nuông chiều quá mức, có một sức quyến rũ hời hợt mà anh ta không quên dùng, lúc nào anh ta cũng làm cho cô cảm thấy khó chịu. Lacey thành thực hối tiếc là bố anh ta không để cho anh ta ở lại làm việc tại văn phòng của họ tại West Side thay vì chuyển anh ta về đây. Cô không hề muốn mất chỗ làm, nhưng làm sao để Rick tránh xa cô bắt đầu trở thành một việc hết sức tế nhị.
Điện thoại lại reo lên và cô cảm thấy nhẹ nhõm khi cầm nó trên tay, “Nhờ nó mà mình thoát khỏi anh chàng Rick rồi”, cô thầm nghĩ.
- Layce Farrell nghe đây.- cô nói.
- Cô Layce Farrell à, tôi là Isabelle Waring. Chúng ta đã gặp nhau hồi mùa xuân năm ngoái, khi cô bán được một căn hộ trong toà nhà của tôi.
Cá đã cắn câu rồi, Layce tự nhủ. Theo linh tính cô phỏng đoán bà Waring muốn rao bán căn hộ của bà ta.
Đầu óc của cô bắt đầu nghĩ mông lung. Vào tháng năm, cô đã bán được hai căn hộ trên đường 70 phía Đông, một là do thừa kế và cô không gặp được bất cứ ai ngoại trừ người quản lý toà nhà, còn căn kìa thì lại nằm tại góc Đại lộ số Năm. Có thể là căn này, căn của gia đình Nostrum. Cô nhớ một cách mơ hồ là cô có nói chuyện với một bà vào khoảng năm mươi tuổi thật dễ mến, tóc màu hung và bà đã hỏi xin danh thiếp của cô.
Hy vọng là mình đã đoán đúng, nên cô hỏi.
- Căn hộ hai phòng của gia đình Nostrum phải không ạ? Hình như chúng ta đã gặp nhau trong thang máy phải không bà Waring?
Bà Waring tỏ ra ngạc nhiên một cách vui vẻ.
- Đúng vậy. Tôi định rao bán căn hộ của đứa con gái tôi và nếu thuận tiện , tôi muốn cô phụ trách việc này.
- Tôi rất sẵn lòng, thưa bà Waring.
Lacey định một cuộc hẹn vào sángngày mai, sau đó xoay qua Rick, cô nói:
- Một dịp ma không tưởng tượng được. Số 3, trên đướng 70 phía Đông, một căn hộ sang trọng.
- Số 3, trên đường phía 70 phía Đông, căn hộ nào thế?- Anh nhanh nhẹn hỏi lại.
- Căn 10B, anh biết nó không?
- Vì sao tôi phải biêếtnó chứ? – Anh trả lời hết sức khô khan.- Cô không được quên là với sự khôn ngoan của mình, bố tôi bắt tôi phải làm việc 5 năm lòên trong khu West End.
Lacey có cảm tưởng là Rick muốn tỏ ra ân cần khi anh nói tiếp:
- Nếu như tôi hiểu không làm thì có một người nào đó đã làm quen với cô và người đó thích cô. Giờ đây người đó muốn giao cho cô độc quyền vụ chuyển nhượng này. Tôi đã nói với cô lời khuyên bảo của ông nội tôi vè cái nghề này mà “ Đúng là một phép lành khi người ta còn nhớ đến mình”.
- Có thể lắm, nhưng tôi không chắc đây là một phép lành- Lacey đáp lại, hy vọng câu trả lời hoài nghi này sẽ kết thúc cuộc nói chuyện. Cô cũng hy vọng là một ngày nào đó Rick sẽ đối xử với cô như bao nhân viên khác trong lãnh địa của gia đình anh ta.
Sau đó, anh ta nhún vai bỏ về phòng làm việc của riêng mình, ở đó có thể nhìn xuống đường 62 phía Đông. Của sổphòng làm việc của Lacey thì nhìn xuống đại lộ Madison và cô ngắn nhìn không biết chán sự náo nhiệt của con đường, các đám du khách cũng như các phụ nữ sang trọng ra vào các cửa hàng thời trang.
- Một số trong các người đó là dân New York thứ thiệt- Có đôi lần cô vắt nghĩa cho các bà vợ của các lãnh đạo được thuyên chuyển đến Manhattan mà cô đã đoán sự lo âu của họ. Có rất nhiều người dân ở nước khác đến cư ngụ tại đây, nhưng sau đó mau chóng khám phá ra, mặc dù với nhiều phức tạp của nó, New York luôn là một thành phố hấp dẫn nhất trên thế giới này.
Và nếu như coómột ai đó hỏi, co sẽ nói thêm là:
- Toi đã lớn lên tại Manhattan và ngoài những năm học đại học, tôi lúc nào cũng sống tại đây. Thành phố này thuộc về tôi và lúc nào tôi cũng cảm thấy đây là nhà của tôi.
Bố của cô, Jack Farrell, cũng quyến luyến không kém thành phố New York này. Từ tuổi ấu thơ, Lacey đã khám phá mọi ngõ ngách của nó.
- Chúng ra hợp nhau lắm,- ông Lacey thường nói với cô như thế.- Và giống như bố. con là một bông hoa của các con đường nhựa. Nhưng mẹ con cứ muốn dọn ra vùng ngoại ô. Cũng phải nhìn nhận là dù muốn hay không vẫn bị buộc phải sống tại đây, khi biết rằng bố sẽ khô héo nếu như bố phải rời bỏ nơi đây.
Lacey không những thừa hưởng được từ cha mình lòng yêu mến thành phố này, cô còn nhận được từ ông những nét đặc trưng của người dân Ai-len có làn da trắng trẻo, mắt màu xanh lục và tóc sậm màu. Người chị Kit của cô thì lại hưởng những nét của bà mẹ Anh Quốc- ánh mấ màu xanh dương của loại sứ và tóc vàng hoe của lúa mì.
Là một nhạc sĩ, Jack Farrell đã trải qua phần lớn cuộc đời mình trong các dàn nhạc, thỉnh thoảng cũng chơi trong các câu lạc bộ hay các buổi hoà nhạc. Không có một vở nhạc kịch nào mà Lacey không hát cùng ông. Cái chết đột ngột của ông, khi cô vừa kết thúc việc học vấn của mình, để lại cho cô một cơn sốc mà mãi đến giờ cô vẫn không vượt qua được. Cô luôn tử hải không biết chừng nào cô mới có thể làm được việc đó. Đôi khi, trong những lúc cô đang lang thang trong các khu nhà hát, cô luôn nghĩ là cô sẽ đụng đầu ông ấy.
Sau lễ tang, mẹ cô tuyên bố với nụ cười buồn : “Như ba các con đã tiên đoán, mẹ sẽ rời bỏ thành phố này”. Bà mua một căn hộ tại vùng New Jersey vì bà muốn ở gần gia đình cô con gáo Kít của mình. Một khi đã an cư, bà đã bào làm trong một bệnh viện của khu vực.
Sau khi kết thúc việc học hành, Lacey tìm được một căn hộ trong khu East End và một việc làm tại công ty địa ốc Parker & Parker. Sau tám năm, giờ đây cô đã trở thành một trong những nhân viên đắc lực nhất của công ty.
Miệng ngân nga một bài hát, cô lấy ra hồ sơ căn nhà số 3, đường 70 phía Đông để nghiên cứu. Mình đã bán căn hộ hai phòng ở tầng một, cô nhớ lại. Một căn hộ tuyệt đẹp với trần cao nhưng bếp thì cần phải tân trang lại đôi chút. Bây giờ mình phải tập hợp các thông tin liên quan đến căn hộ của bà Waring.
Mỗi lần có thể được, Lacey thích tự mình thu thập các thông tin về một giao dịch mới. Cô biết là rất bổ ích khi nắm được những người phụ trách việc bảo trì các toà nhà mà công ty cô đang đảm nhiệm. Cô cảm thấy mình đã gặp hên khi tạo được mối quan hệ tốt với Tim Powers, người quản lý toà nhà số 3 đường 70 phía Đông. Cô đã gọi điện cho anh ta để hỏi về căn hộ của bà Waring và đã phải nghe anh ta dông dài suốt 20 phút để kể về kỳ nghỉ của anh ta.
Theo Tim. Bà Isabelle Waring là mẹ của Heather Landi, một nghệ sỹ trẻ tuổi của ngành ca nhạc kịch và cô đã bắt đầu tạo cho mình một tiếng tăm nào đó. Heather, con gái của Jimmy Landi, một chủ nhà hàng nổi tiếng, vừa mới chết trong một tai nạn xe hơi hồi đầu mùa đông rồi. Chiếc xe đã lao ra khỏi con đường nhừa trong lúc cô trở về từ một kỳ trượt tuyết cuối tuần tại Vermont. Căn hộ này trước kia thuộc quyền sở hữu của cô và bây giờ bà mẹ cô ta quyết định rao bán.
- Bà Waring không bao giờ từ bỏ ý nghĩ cái chết của Heather không chỉ là một tai nạn,- Tim nói thêm.
Sau khi gác được máy, Lacey ngồi trầm ngâm một lúc, nhớ lại cuộc gặp mặt với Heather Landi một năm trước đây trong một buổi trình diễn nhạc kịch. Nói cho đúng việc làm cô nhớ nhất chính là Heather Landi.
Cô ta có đủ những thứ cần thiết cho mình: sắc đẹp, sự hiện diện trên sân khấu, một giọng nữ cao. Một viên ngọc quý, theo lời nói của ba cô ta vì thế cũng không lạ gì khi bà mẹ từ chối tin vào cái chết của đứa con mình.
Lacey bất giác rùng mình nên đứng lên để điều chỉnh lại máy điều hoà nhiệt độ.
Vào sáng ngày thứ Ba, Isabelle Waring thong thả đi quanh căn hộ của đứa con gái, quan sát thật tỉ mỉ với ánh mắt khắt khe của một nhà địa ốc. Bà tự khen mình vì đã giữ lại tấm danh thiếp của Lacey Farrell. Jimmy, người chồng trước của bà và là cha của Heather, thúc giục bà rao bán căn hộ và bà cũng phải nhìn nhận là ông ta đã để cho bà có đủ thời gian cồn thiết.
Bà còn nhớ khi bà gặp Lacey Farell trong thang máy, bà ngay lập tức thích cô ta, Cô làm cho bà nhớ lại Heather.
Thực sự thì cô không giống Heather một chút nào hết. Con gái bà tóc ngắn, màu nâu sáng, có ánh vàng được uốn cong với đôi mắt màu hạt dẻ. Cô ta nhỏ con, chỉ khoảng một thước sáu mươi với thân hình mềm mại, và cân đối. Cô ta tự cho mình là một “con búp bê dịch vụ”. Trong khi Lacey lớn con hơn, mảnh khảnh với đôi mắt màu xanh lục, còn bộ tóc nâu dài và thẳng rũ xuống đôi vai. Tuy nhiên có một cái gì đó trong nụ cười và thái độ của người này làm cho bà nhớ đến Heather, cô con gái yêu của mình.
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)


Phần 3


Isabelle nhìn xung quanh. Có thể người ta sẽ không thích loại gỗ phủ tường màu sáng và các tấm đan bằng cẩm thạch mà Heather đã lót ngay ở lối ra vào. Nhưng đó là các chi tiết không đán kể vì người ta có thể thay đổi; trái lại căn nhà bếp và phòng tắm vừa được tân trang là những yếu tố cần thiết cho việc rao bán.
Sau vài lần lưu lại ngắn ngủi ở New York để soạn lại các tủ quần áo , vận dụng, cũng như gặp mặt bạn bè của con gái, bà Waring mặc dù rất đau khổ vẫn phải quyết định chấm dứt việc tìm ra lý do về cái chết của Heather để cuộc sống của mình trở lại bình thường như cũ.
Dù gì thì bà cũng vẫn không bao giờ tin cái chết của Heather chỉ đơn thuần là một tai nạn xe hơi. Bà quá hiểu cô con gái của mình: cô không bao giờ vô ý đến mức lái xe từ Stowe trong một cơn bão tuyết và nhất là trong đêm tối. Nhưng vị bác sĩ pháp y đã khẳng định các sự kiện đó. Và Jimmy cũng bị thuyết phục chứ bằng không ông ta đã quậy tung cái khu Manhanttan này lên để tìm cho ra sự thật.
Trong lần ăn điểm tâm cuối cùng và thật hiếm hoi giữa họ, ông có khuyên Isabelle là đừng có suy nghĩ đến việc đó nữa, mà hãy cố hoà mình vào nhịp sống bình thường, Theo ông, có thể đêm đó Heather không thể ngủ được với cái thông báo về bão tuyết đó và cô buộc phải về cho kịp buổi tập dợt vào sáng ngày hôm sau bằng mọi cách. Ông từ chối thẳng thừng mọi việc mờ ám hay bất bình thường về nguyên nhân đưa đến cái chết kia.
Mặc dù vậy, Isabelle vẫn cứ cương quyết không chấp nhận thực tế này. Bà có kể cho ông nghe về một cuộc nói chuyện đang ngại giữa bà với cô con gái một thời gian ngắn trước khi cô ta chết.
- Jimmy à, Heather không ở trong trạng thái bình thường khi tôi gọi điện cho nó. Một cái gì đó đang ám ảnh nó nên nó tỏ ra lo âu một cách lạ thường. Tôi cảm nhận được điều đó trong giọng nói của nó.
Bữa ăn sáng kết thúc khi ông đột nhiên la lên vì quá chán nản:
- Thôi đi Isabelle! Nhờ ơn Chúa, bà có thôi đi không! Việc đó cũng đã làm cho chúng ta quá đau khổ rồi, tại sao bà cứ nhắc đi nhắc lại hoài vậy, đi dọ hỏi hết người bạn này đến người bạn khác vậy. Tôi xin bà, bà hãy để cho con gái chúng ta chết một cách yên ổn được không?
Khi nghe những lời này, Isabelle lắc đầu. Jimmy Landi đã yêu Heather hơn tất cả những thứ khác trên đời này. Tiếp đó mới đến nỗi đam mê quyền lực, bà thầm nghĩ một cách cay đắng, chính điều đó đã làm cho cuộc hôn nhân này phải tan rã. Cái nhà hàng nổi tiếng của ông ta, các vụ đầu tư, bây giờ là cái khách sạn và sòng bạc tại Atlantic City, nên không còn chỗ cho bà trong đời sống của ông nữa. Nếu như lúc đó ông có người hùn vốn như Steve Abbott như ngày nay, có thể cuộc hôn nhân còn cứu vãn được. Bỗng nhiên, bà muốn quan sát lại căn hộ này nên bà đứng trước cửa sổ nhìn xuống đại lộ số Năm.
New York quả nhiên thật tuyệt vời trong tháng chín, bà thầm nghĩ, mắt nhìn những người đang chạy bộ trong công viên trung tâm, các bà vú đẩy xe nôi, những người già đang tắm nắng trên băng ghế. Mình đã từng đấy Heather trong chiếc xe nôi trong những ngày như thế này đây. Phải mất mười năm và ba lần hư thai để cho nó ra đời, và nó đã tưởng thưởng cho tất cả những nhọc nhằn đó rồi còn gì. Nó là một đứa trẻ hết sức đáng yêu. Những người qua đường không ngớt đứng lại nhìn và chiêm ngưỡng nó. Đương nhiên là bà biết điều đó chứ. Nó thích được ngồi đó để tham gia vào tất cả những gì đang xảy ra quanh đó. Nó rất thông minh, biết quan sát, có tư chất. Quá tự tin…
Tại sao con lại phá bỏ hết mọi thứ như thế Heather? Câu hỏi ngày được Isabelle đặt ra cả trăm lần rồi và nó đã dày vò bà từ sau cái chết của đứa con gái. Sau lần tai nạn xảy ra cho con lúc còn nhỏ, khi con thấy một chiếc xe chạy trật ra khỏi con đường để đâm vào một bức tường, con đã hoảng sợ hét toáng. Con còn có ý định sinh sống tại California để tránh sự khắc nghiệt của mùa đông. Thế tại sao con lại đi trên con đường núi trong cơn bão tuyết vào lúc hai giờ sáng như vậy? Con mới hai mươi bốn tuổi thôi, và con được đời ưu đãi cho rất nhiều thứ. Đêm đó, chuyện gì đã xảy ra vậy? Vì lý do gì con phải láo xe như thế? Hay ai đã bắt con làm chuyện đó?
Chuông điện thoại reo, lôi bà ra khỏi nỗi day dứt triền miên. Đó là người gác cửa đến thông báo là cô Farrell đã có mặt cho buổi hẹn lúc mười giờ của bà.

- o O o -

Lacey bị bất ngờ trước thái độ đón tiếp nồng hậu nhưng bồn chồn của Isabelle.
- Trời ơi! Tôi không hình udng là cô còn trẻ đến như thế? Cô đã bao nhiêu tuổi rồi? Ba mươi chưa? Cô có biết là con gái tôi sẽ hai mươi lăm tuổi vào đầu tuần sau không? Nó đã sống ở đây, căn hộ này là của nó. Vậy mà nó không còn nữa. Theo quy luật tự nhiên, chính tôi là người phải ra đi trước tiên và chính nó phải soạn các đồ đạc của tôi.
- Tôi cũng có hai đứa cháu trai và một cô cháu gái- Lacey cho biết như thế, - và tôi không thể nào nghĩ là chúng sẽ gặp một tai nạn nào đó. Tôi có thể hiểu được tâm trạng của bà.
Isabelle bước theo cô, trong khi với con mắt nhà nghề, cô ghi nhận kích thước của mỗi căn phòng. Ở tầng dưới là cửa ra vào, phòng ăn và một phòng khách khá rộng, một phòng nhỏ làm thư viện, một nhà bếp cùng nhà vệ sinh. Đi lên tầng trên bằng một cầu thang xoắn ốc, có một phòng ngủ với những thứ cần thiết, một phòng khách nhỏ và nhà vệ sinh.
- Nơi này quá rộng cho một phụ nữ sống một mình,- Isabelle cắt nghĩa.- Cô biết không, chính bố Heather đã mua căn hộ này cho nó vì ông muốn con mình được sung sướng. Trên thực tế, khi đến ở tại New York sau khi đã học xong, nó muốn mướn một căn phòng nhỏ trong khu West Side. Jimmy đã nhảy dựng lên. Ông muốn là nó phải ở một căn hộ có người gác cửa, muốn nó sống trong sự an toàn. Ngày hôm nay ông yêu cầu tôi rao bán căn hộ và tôi giữ số tiền đó. Ông nói là Heather có ý như thế. Ông nói tôi không nên chìm đắm trong sự đau khổ nữa mà tôi phải sống trở lại một cách bình thường. Nhưng để quên được là một điều rất khó…Tôi cố gắng hết sức mình, nhưng không biết là một ngày nào đó, tôi có làm được hay không nữa…- Giọng của bà bị nghẹn lại.
Lacey hỏi một câu mà cô cho là quan trọng:
- Bà có chắc là bà muốn bán nó không?
Hơi hoang mang, cô thấy vẻ can đảm của bà Isabelle Waring biến đổi dần và mắt bà rớm lệ.
- Tôi đã cố gắng hết mức để tìm ra nguyên nhân dẫn đến cái chết của con gái tôi. Tại sao nó phải vội vã rời bỏ khách sạn trong đêm đó? Vì lý do gì mà nó không thể chờ đến sáng ngày hôm sau để đi cùng với mấy người bạn như đã định. Cái gì đã làm cho nó thay đổi ý kiến? Tôi tin chắc là có một người nào đó biết được việc này. Tôi cần phải biết được. Tôi biết là có một cái gì đó dày vò nó, dù cho nó không bao giờ muốn nói ra. Tôi thiết nghĩ là có thể tìm được câu trả lời ngay tại New York, hay ngay trong căn hộ này hoặc với một trong các người bạn của nó. Nhưng bố của nó lại trách tôi là đi quấy rầy mọi người với những chuyện này, và có thể ông ta có lý khi nói là cuộc sống vẫn đang tiếp diễn. Như thế, tôi có thể trả lời cho câu hỏi của cô, cô Lacey à, đúng, tôi muốn bán nó.
Lacey chụp bàn tay của bà:
- Tôi cũng tin là chính Heather cũng sẽ khuyên bà như thế, - cô đáp thật nhỏ nhẹ.

- o O o -

Ngay tối hôm đó, Lacey lái xe đi suốt bốn mươi cây số đến Wyckoff tại bang New Jersey, nơi ở của mẹ và chị cô. Cô đã không gặp những người thân từ hồi đầu tháng tám, khi cô đi nghỉ hè một tháng tại Hampton. Người chị Kít và ông chồng Jay, có một ngôi nhà nghỉ hè tại Nantucket và luôn hối thúc Lacey đến đó nghỉ hè với họ.
Khi vượt qua cây cầu Geoger Washington, Lacey chuẩn bị nghe các lời khiển trách đang chờ đón cô.
- Cô chỉ ở lại đây cùng chúng tôi ba ngày thôi sao?- Người anh rể hỏi cô.- Thế Hampton Đông có gì hơn Nantucket kia chứ?
Điểm thứ nhất là anh không có mặt ở đó, cô thầm nghĩ với nụ cười. Người anh rể Jay Taylor này, là chủ một cửa hàng kinh doanh rất thịnh vượng các trang thiết bị về nhà hàng, tuy không phải là tuýp người của chị cô nhưng hai người đã yêu nhau thật say đắm và giữa họ đã có mấy đứa con kháu khỉnh. Vậy còn mong gì hơn nữa? Còn Jay, nếu như anh ta bớt nổ một chút thì hay biết mấy.
Khi đi trên quốc lộ 4, cô bỗng nhiên cảm thấy nóng lòng gặp lại những người thân của mình: mẹ, chị Kít và mấy đứa con của chị. Todd, thằng lớn đã mười một tuổi rồi, Andy là đứa kế mười tuổi và Bonnie, đứa cô cưng nhất, một cô bé thật đáng yêu mới bốn tuổi. Nghĩ đến đứa cháu, cô mới nhận thấy là trong suốt ngày hôm nay hình bóng của Isabelle Waring luôn lởn vởn trong đầu cô, cô dường như còn nghe thấy những lời nói của bà ta. Người ta dường như có thể sở mó được nỗi thống khổ của người mẹ này. Bà đã năn nỉ Lacey phải uống với bà một tách cà phê để bà tiếp tục nói về đứa con gái của mình.
- Tôi đến định cư tại Cleverland sau khi ly hôn. Tôi đã lớn lên tại thành phố này. Lúc đó Heather mới có năm tuổi. Và trong khi lớn lên nó vẫn đòi chia thời gian để sống giữa ba nó và tôi. Mọi việc đều êm xuôi. Sau đó tôi tái giá. Ông ta chét cách đây ba năm. Tôi luôn mong là Heather sẽ gặp được người đàn ông xứng đáng với nó, sau đó nó sẽ có con, nhưng nó lại dồn hết tâm trí vào sự nghiệp. Tuy nhiên, một ít lâu trước khi nó chết, tôi có cảm giác là nó đã gặp một người nào đó. Tôi có thể lầm, nhưng tôi hình như đã biết được chuyện đó qua giọng nói của nó.
Tiếp đến Isabelle hỏi một câu với giọng hết sức âu yếm:
- Còn cô Lacey, điều gì quan trọng nhất trong đời của cô?
Khi nghĩ đến câu hỏi này, Lacey nở một nụ cười buồn bã. Cũng không hẳn như thế, nàng thầm nghĩ. Kể từ ngày tôi vượt qua cái tuổi ba mươi định mệnh đó, tôi luôn ý thức được rằng cái đồng hồ sinh học của tôi vẫn chạy tốt. Ôd, mặc kệ nó! Tôi rất thích công việc làm của tôi, tôi thích căn hộ tôi đang ở, thương yêu gia đình và bạn bè của tôi. Tôi tận hưởng cuộc đời tôi và không có gì để phiền trách ai cả. Những gì phải đến thì sẽ đến thôi.
Bà mẹ ra mở cửa.
- Kít đang ở trong bếp còn Hay thì rước mấy đứa nhỏ-bà nói sau khi hôn cô thật âu yếm,- Ngoài ra trong nhà còn có một người mà mẹ rất muốn giới thiệu cho con.
Lacey giật mình khi thấy một người đàn ông mà cô không hề biét đứng cạnh cái lò sưởi to lớn trong phòng khách, trên tay cầm một ly rượu. Vẻ mặt ngượng ngùng, bà mẹ giới thiệu cho Lacey biết đây là Alex Carbine, quyen biết bà từ nhiều năm trước và mới đây dã gặp lại nhau nhờ việc Jay bán trang thiết bị cho cái nhà hàng mới của ông ta trên đường 46 phía Tây.
Trong lúc bắt tay ông ta, Lacey thực hiện một cuộc quan sát chớp nhoáng. Độ sáu mươi tuổi, vừa vào lứa tuổi của mẹ, vóng dáng đẹp, có vẻ khoẻ mạnh, trong lúc bà mẹ gần như không biết phải làm gì nữa. Có chuyện gì vậy kìa? Mỗi khi có thể, bà mẹ biến mất trong cái nhà bếp siêu hiện đại, nơi mà Kít đang trộn xà lách.
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

Phần 4


- Chị có biết chuyện này kéo dài được bao lâu rồi không? Cô hỏi người chị của mình.
Kít, với mớ tóc túm ngược ra phía sau, một hình ảnh tuyệt đẹp của một bà chủ nhà, có một nụ cười đồng loã.
- Từ gần một tháng nay rồi, ông ấy rất dễ thương. Một hôm Jay có mời ông ta lại nhà ăn tối,và mẹ cũng có mặt ở đó. Alex goá vợ và ông làm công việc điều hành nhà hàng, nhưng đây là lần đầu tiên mà ông làm chủ, chị nghĩ như thế. Anh chị có đi đến đó và thấy tiệm đó cũng khá đẹp.
Cả hai người giật mình khi có tiếng cửa đóng sầm trước nhà.
- Can đảm lên em, Jay và mấy đứa nhỏ đã về rồi.- Kit khuyên như thế.
Khi bé Todd mới lên năm tuổi, Lacey đã đem nó cũng như mấy đứa con sau này của Kit, đi thăm Manhattan. Cô muốn giới thiệu cho chúng biết thành phố này giống như ba cô đã làm với cô trước đây. Họ gọi những buổi dã ngoại đó là những ngày Jack Farrell- đó là lúc gồm cả việc đi xem hát tại Broadway (cô đã xem vởi Mèo đến năm lần rồi) hay đi tham quan các viện bảo tàng (Viện Bảo Tàng Lịch Sử Tự Nhiên với bộ xương khủng long đương nhiên là nơi bọn chúng thích nhất). Họ cũng đã lùng sục trong khu Greenwich Village, đáp xe điện đến tận đảo Roosevelt, đi tàu thuỷ đến đảo Ellis, ăn sáng tại trung tâm Thương Mại Quốc Tế cũng như trượt băng tại trung tâm Rockefeller.
Mấy đứa cháu trai đón mừng Lacey với tính sôi nổi thường tình của chúng. Bonnie vẫn nhút nhát như thường lệ, nép sát vào cô.
- Cháu nhớ dì lắm dì à? Con bé thỏ thẻ.
Lúc đó Jay mới khen cô có vẻ mặt tươi tắn, nói rằng các ngày nghỉ tại Hampton rất bổ ích cho cô/
- Hơn cả tuyệt vời, - Lacey đáp lại với vẻ tinh nghịch.
Trong bữa ăn tối, Todd quan tâm đến việc làm của bà dì nên hỏi Lacey:
- Hoạt động của thì trường địa ốc New York lúc này ra sao hả cô?
- Ừ, thì nó cũng đang bắt đầu hoạt động trở lại đấy,- cô trả lời.- Nhân tiện đây, tôi báo cho cả nhà biết là hồi sáng nay có người giao cho tôi một vụ buôn bán hết sức hấp dẫn, - Và cô kể cho họ nghe về Isabelle Waring và nhận thấy Alex Corbine nghe chăm chú hết sức.
- Thế ông có biết bà ta không?- Cô hỏi ông ta.
- Không,- Ông đáp lại,- nhưng tôi biêt Jimmy Landi và có gặp cô con gái Heather của họ. Tai nạn đó quả là một thảm kịch. Jay, anh đã liên lạc với Jimmy rồi mà và chắc anh cũng phải biết Heather phải không> Cô ta thường đến nhà hàng mà.
Lacey rất ngạc nhiên khi tháy người anh rể của mình đỏ mặt.
- Không, tôi chưa hề gặp mặt cô ta,- anh ta trả lời, giọng hơi bực dọc- Đúng là tôi có vài vụ làm ăn với Jimmy Landi.

- o O o -

Đã hơn bảy giờ tối. Trong quầy bar của nhà hàng không còn một chỗ trống và khách ăn tối thì tấp nập. Jimmy Lan đi biết lẽ ra ông phải xuống đó để tiếp khách, nhưng ông không hề muốn làm việc đó. Với ông, ngày hôm nay thật tồi tệ và ông đang ở trong trạng thái hoàn toàn suy sụp sau cú điện thoại của Isabelle: ông thấy lại hình ảnh của Heather bị kẹt trong chiếc xe đang cháy. Hình ảnh đó cứ ám ảnh ông một lúc lâu sau khi ông đặt ống nghe xuống.
Ánh đèn điện rực rỡ bên ngoài chiều xiên qua các cánh cửa sổ rộng lớn của phòng làm việc, làm nổi rõ bức tường phủ lambri gỗ trong một toà nhà nhỏ bằng gạch xám trên đường 56 phía Tây. Nhà hàng Venezia của ông cũng toạ lạc trong toà nhà này và nó được mở ra cách đây ba mươi năm. Ông mua lại một nơi mà người ta đã mở liên tiếp ba cái nhà hàng bà đều bị phá sản. Khi ấy, Isabelle và ông đã sống trong một căn phòng nhỏ có sẵn đồ đạc ở ngay trên tầng một. Ngày hôm nay ông là chủ của toà nhà này và nhà hàng Venezia là nơi mà giới nổi tiếng của Manhattan đến ăn.
Ngồi trước bàn làm việc hình ống, Jimmy đang nghĩ đến các lý do khiến ông không muốn xuống dưới đó.Không phải chỉ vì cú điện thoại của bà vợ cũ của ông. Nhà hàng ông được trang trí bằng cách bích hoạ, một ý tưởng lấy từ một nhà hàng cạnh tranh, tiệm Côte Basque. Các bức tranh tường này vẽ thành phố Venise và chúng thể hiện những cảnh mà trên đó có hình của Heather ở nhiều độ tuổi khác nhau. Khi hai tuổi, cô được vẽ với bộ mặt kháu khỉnh trước cửa sổ lâu đài của mấy vị Đô- giơ. Đến tuổi thiếu niên, cô ngồi trên chiếc thuyền gông-đôn nghe người lái hát một khúc xê-rê-nat; khi vào tuổi hai mươi cô làm người mẫu dưới hình ảnh một cô gái đang đi trên cây cầu với tập nhạc kẹp trong tay.
Jimmy biết là nếu như ông muốn tìm đc sụ bình thản trong tâm hồn, ông phải tháo bỏ hết các bích hoạ đó và cả việc Isabelle cứ khăng khăng với ý nghĩ là có một người nào đó phải chịu trách nhiệm về cái chết cuả Heather. Dẫu biết vậy, nhưng ông vẫn cảm thấy cần sự hiện diện của Heather, ánh mắt cô ta nhìn thẳng vào ông khi ông đi ngang qua phòng ăn của nhà hang, cũng như sự có mặt của cô ta cạnh ông, tại đây, ngày này qua ngày khác.
Ông đã ở cái tuổi 67, tuy vậy tóc vẫn giữ màu nâu tự nhiên, một cái nhìn mơ màng dưới bộ lông mày rậm rạp tạo cho ông một vẻ bất cần đời. Dáng người trung bình, thân hình rắn chắc bà gân guốc thể hiện một sức mạnh thú tính. Ông biết là các bộ vét tông được may đo cẩn thận khiến những kẻ ghen ghét cười nhạo ông và dù cho ông cố gắng đến đâu đi nữa, ông vẫn mang dáng vóc của một con người bình dân. Ông mỏm cười khi nhớ lại bộ mặt của Heather khi lần đầu tiên cô nghe lời nhận xét này.
Ông nói với cô là không nên bận tâm về chuyện đó, rằng ông có thể mua hàng tá người như thế và đó là mới là điều quan trọng.
Ông lắc đầu. Hơn bao giờ hết, lúc này đây ông biết việc đó không phải là chuyện duy nhất khiến ông phải bận tâm nhưng nó cũng là lý do chính đáng để cho ông thức dậy vào mỗi buổi sáng. Ông đã vượt qua thời kỳ kinh khủng này bằng cách chú tâm vào kế hoạch mở cái khách sạn- sòng bạc sẽ được xây cất tại Atlantic City.
- Donald Trump, hãy xéo đi!- Heather thốt lên như thế khi ông đưa cho cô xem cái mô hình.- Ta có thế gọi đó là Heathers Place và con sẽ trình diễn độc quyền tại đó, ba nghĩ thế nào, baba yêu quí?
Cô dùng cái tên gọi thân mật đó từ khi cô được mười tuổi, trong một chuyến du lịch tại Ý. Và kể từ ngày đó, cô không còn gọi ông bằng từ “ba” nữa.
Ông nhớ lại câu trả lời của ông lúc đó:
- Ba không do dự khi con đứng đầu trong tờ quảng cáo nếu như nó thuộc về ba hoàn toàn, con biết điều đó mà. Ba còn phải xem ý kiến của Steve thế nào nữa chứ. Vì anh ta cũng đã bỏ một số tiền lớn vào trong đó nên ba cũng đã cho anh ta quyết định một số việc. Nhưng thôi, chúng ta hãy nói đến việc khác đi chẳng hạn như con bỏ cái nghề của con để lập gia đình và cho ba vài đứa cháu ngoại được không?
Heather phá lên cười.
- Ồ baba ơi, baba hãy cho con them hai năm nữa đi, con đang thích cuộc sống tự do hiện nay mà.
Ông thở dài, tưởng chừng như vẫn còn nghe giọng cười đó. Ông sẽ không có cháu ngoại, không bao giờ. Một đứa cháu gái tóc vàng với cặp mắt màu hạt dẻ, hay một thằng cháu trai mà sau này khi lớn lên sẽ thế chỗ của ông giờ chỉ còn trong mơ.
Một tiếng gõ cửa đưa ông trở về thực tại.
- Hãy vào đi Steve,- Ông nói.
Cũng may là mình có được Steve Abbott, ông thầm nghĩ. Hai mươi lăm năm trước đây, một sinh viên trẻ rời khỏi trường đại học Cornell, đến gõ cửa nhà hàng của ông trong khi nó đang đóng.
- Thưa ông Landi, tôi muốn được làm việc cho ông,- anh ta tuyên bố như thế.- Tôi có thể học được nơi ông nhiều hơn bất kỳ một trường đại học nào dạy tôi.
Jimmy tiếp anh ta với tâm trạng vừa xui vừa bực dọc. Ông thầm đánh giá người thanh niên này xấc xược nhưng thuộc loại biết nhiều thứ.
- Anh muốn làm việc cho tôi phải không? – ông đã hỏi như thế và chỉ tay vào nhà bếp, nói tiếp.- Đây là nơi mà tôi bắt đầu sự nghiệp của tôi.
Ông không hề hối tiếc vì quyết định của mình. Steve có thể là một thằng ranh con biết cách cư xử, nhưng thật ra anh ta là một thanh niên trẻ gốc Ai len. Mẹ của anh ta làm nghề hầu bàn để kiếm tiền cho con học đại học và anh ta đã chứng minh được là anh ta cũng có một lòng nhiệt huyết không kém. Ngay lúc đó, ông đã cho anh ta là một tên ngu ngốc khi bỏ ngang sự học hành như thế, nhưng ông đã lầm. Chàng trai này được sinh ra để làm cái nghề này.
Steve Abbott mở cánh cửa ra và bật ngay cái công tắc điện gần nhất khi bước vào trong phòng.
- Tại sao ông lại ngồi trong tối như thế? Ông đang cầu cơ phải không Jimmy?
Landi nở một nụ cười buồn với anh ta và ghi nhận lòng trắc ẩn trong ánh mắt của người cộng sự trẻ tuổi này.
- Tôi đang nghĩ mông lung.
- Ông thị trưởng vừa đến cùng bốn người khách.
Jimmy đẩy cái ghế ra để đứng lên.
- Sao không ai báo với tôi là ông ta đã đặt bàn ở đây?
- Ông ta không đặt bàn. Ngài thị trưởng không thể cưỡng lại món bánh hot-dog yêu thích của mình, tôi nghĩ thế...
-
Với vài bước chân dài, Abbott đến để tay lên vai của Landi.
- Một ngày vất vả quá phải không?
- Đúng vậy,- Jimmy thở ra.- Sáng nay Isabelle có gọi điện cho tôi để báo nhân viên địa ốc có đến xem căn hộ của Heather và nói là có thể người ấy sẽ bán được nó trong thời gian ngắn thôi. Và như thường lệ, mỗi khi điện thoại, bà lạ nhắc đến chán ngấy cái chuyện đó: bà không thể nào tin là Heather có thể ra đi như thế trong đêm bão tuyết, để rồi gặp định mệnh khắc nghiệt. Đối với bà, cái chết đó không phải là ngẫu nhiên. Bà ta không từ bỏ ý nghĩ đó và nó làm cho tôi điên mất.
Ánh mắt lờ đờ của ông như nhìn vào cõi xa xăm nào đó.
- Anh có thể tin là lúc tôi mới quen với Isabelle, nàng là một cô gái rất đáng yêu. Một nữ hoàng sắc đẹp của Cleveland đấy! Khi quen với Isabelle tôi được biết nàng đã đính hôn và gần đến ngày cưới rồi, nhưng tôi vẫn lột chiếc nhẫn đó ra khỏi ngón tay của nàng và quăng ra ngoài cửa xe- Ông khẽ cười. – Tôi đã phải mượn tiền để trả lại cho vị hôn phu kia nhưng tôi đã thắng. Chính tôi đã cưới được Isabelle.
Abbott biết rõ chuyện này và cũng hiểu tại sao ông lại nhắc đến nó.
- Có thể cuộc hôn nhân của ông không thể kéo dài đúng như ý muốn nhưng bù lại ông đã có Heather rồi còn gì.
- Anh hãy tha lỗi cho tôi Steve. Đôi khi tôi cảm thấy mình quá già rồi và trở nên lẩm cẩm. Anh đã biết hết mọi chuyện. Isabelle không bao giờ thích thành phố New York hay ngay cả lối sống ở đó. Nhưng lẽ ra bà không nên rời khỏi Cleveland.
- Nhưng bà đã làm chuyện đó nên ông mới gặp bà được. Thôi nhé Jimmy, ông thị trưởng đang chờ ông đấy.
 
Ðề: Truyện ma có thật, anh em đóng góp thêm nhé (nhiều tác giả)

Phần 5


Suốt những ngày sau đó Lacey cho tám người khách có khả năng mua, xem căn hộ đó. Hai trong số này hiển nhiên đến đây chỉ để giải trí mà thôi, những người hiếu kỳ muốn làm mất thời giờ của nhân viên địa ốc.
- Chúng ta cũng không biết chắc, - cô nói với Rick Parker vào một hôm cô ghé lại văn phòng trước khi về nhà,- chuyện gì sẽ xảy ra? Ngay lúc anh muốn bỏ rơi việc này, không chừng có ai đólại ký cho anh một tấm ngân phiếu cho một căn hộ trị giá một triệu đô la.
- Cô kiên nhẫn hơn tôi nhiều,- Rick trả lời-, nét mặt anh mang những nét của dòng dõi quý tộc của mình, biểu lộ sự khinh bỉ cao ngạo. Tôi không bao giờ thích người ta làm mất thời giờ của tôi. RPJ muốn biết cô có mối nào nghiêm túc cho căn hộ của Waring không.
RPJ là những từ nói tắt mà Rick dùng mỗi khi anh đề cập đến bố mình.
- Tôi chưa chắc, nhưng đây là một giao dịch mới chỉ bắt đầu thôi và sáng mai là một ngày khác rồi.
Anh ta cười.
- Cám ơn nghe Scarlett. Tôi sẽ chuyển thông tin này lại cho ông ấy. Hẹn gặp lại.
Lacey nhăn mặt ở sau lưng anh ta. Hôm nay Rick tỏ ra cáu gắt khó hiểu. Cái gì đã làm cho anh bối rối như thế? Lacey tự hỏi mình. Và tại sao trong lúc anh ta đang phụ trách việc bán căn hộ ở Plaza, bố anh ta lại quan tâm đến căn hộ của Waring? Ông ta không thể cho mình yên được ư?
Cô khoá tủ của mình lại rồi xoa trán, cố xua tan cơn nhức đầu sắp sửa hành hạ cô. Cô đột nhiên cảm thấy như kiệt sức. Cô đã sống trong một cơn lốc từ sau những ngày nghỉ hè. Cô buộc phải gặp lại các khách hàng trước đây, tìm kiếm các vụ làm ăn mới, gặp lại bạn bè, đón mấy đứa con của Kít đến ở trong dịp cuối tuần,… chưa kể đến những giờ lê thê dành cho Isabelle Waring.
Isabelle bắt đầu có thói quen gọi điện cho cô hàng ngày, hối thúc cô phải đến gặp bà tại căn hộ đó.
- Lacey à, chúng ta có thể ăn trưa với nhau không? Cô cũng phải ăn chớ, có đúng không?- Bà nói như thế hoặc: “Lacey, trước khi về nhà, cô có thể đến đây uống với tôi một ly được không? Cô có biết người nhập cư tại Tân Anh Quốc gọi lúc hoàng hôn là gì không? Họ đặt cho cái tên là “ánh sáng nâu”. Đó là thời khắc con người cảm thấy buồn nhất trong ngày”.
Lacey nhìn qua cửa sổ. Những cái bóng dài di chuyển trên đại lộ Madison, bằng chứng hiển nhien là ngày trở nên ngắn hơn. Đúng là thời khắc buồn nhất, cô thầm nghĩ. Còn Isabelle thì quá buồn rầu. Bà cố gắng lựa hết mọi thứ trong căn phòng đó, cho đi mới quần áo không dùng đến và các vận dụng của con gái mình. Đó cũng không phải là một việc dễ làm.
- Cũng dễ thôi khi phải bỏ một chút thời gian để ở đó nghe bà ta kể chuyện,- Lacey tự nhủ như thế. Việc đó không làm cho mình buồn chán. Vả lại mình cũng có nhiều cảm tình với bà, bà gần như thành người bạn rồi. Nhưng phải chia sẻ nỗi khổ đau của bà làm cho mình nhớ lại những cảm giác đau buồn khi hay tin người cha thân yêu của mình qua đời.
Cô đứng lên. Mình buộc phải về nhà thôi và nằm lăn ra đó. Điều này rất cần.
Hai giờ sau đó, khi lấy lại được sinh lực sau mươi phút tắm jacuzzi, Lacey làm cho mình một dĩa TRC, thăn lợn hun khói, rau diếp và cà chua, loại xăng-uýt mà ba cô ưa thích nhất. Theo lời ông, đó là món ăn ngon nhất mà người ta có thể dùng tay để ăn ở khắp thành phố New York này.
Điện thoại reo. Cô đã cài máy trả lời nên không bận tâm vì không muốn cầm điện thoại lênkhi nghe tiếng của Isabelle Waring. Cô không muốn mất hai mươi phút để hầu chuyện bà ta.
Giọng nói của Isabelle Waring tăng âm, có vẻ như đang bị căng thẳng.
- Lacey, tôi nghĩ là cô không có ở nhà đâu. Tôi cần phải tâm sự cùng ai đó. Tôi vừa tìm thấy cuốn nhật ký của Heather trong ngăn tủ bỏ đồ phế thải. Có cái gì đó mà nó viết trong đó chứng minh là tôi không điên khùng khi khẳng định cái chết của nó không phải là một tai nạn. Giờ đây tôi có thể chứng minh là có một ai đó muốn trừ khử nó. Tôi không nói gì thêm. Tôi sẽ nói chuyện với cô vào sáng mai.
Sau khi nghe lời nhắn này, Lacey lắc đầu, rút dây máy trả lời và ngắt chuông điện thoại. Cô không muốn có một người nào khác điện cho cô. Cô muốn được yên cho đến sáng ngày hôm sau.
Có một bữa tối yên lành, một xăng uýt, một ly rượu ngon và một cuốn sách hấp dẫn. Cô đáng được hưởng những thứ đó.

- o O o -

Khi cô đến văn phòng làm việc vào sáng ngày hôm sau, cô đã cảm thấy hối hận khi tháo dây điện thoại vào đêm hôm qua.Mẹ cô, sau đó là Kit đã gọi điện cho cô: cả hai người đều muốn biết chuyện gì đã xảy ra với cô, họ rất lo âu khi không thể gọi được cho cô vào đêm hôm qua. Trong khi cô đang cố làm yên lòng người chị của mình thì Rick xuất hiện ở cửa, vẻ mặt càu nhàu.
- Isabelle Waring muốn nói chuyện với cô. Họ đã chuyển điện thoại qua phòng làm việc của tôi.
- Kit ơi, em ngưng đây, em có công việc phải làm.
Gác máy xong. Cô chạy ù qua phòng làm việc của Rick.
- Xin lỗi bà Isabelle, tôi không thể trả lời cho bà vào đêm qua,- cô đáp lại.
- Không quan trọng lắm đâu, dù gì đi nữa tôi không thể nói nhiều qua điện thoại được. Cô có định đưa ai đến xem căn hộ ngày hôm nay không?
- Hiện giờ, tôi chưa có một người khách hàng nào hết.
Cô vừa kết thúc câu nói này thì Rick chìa một tờ giấy dưới mắt cô. Trong đó viết “Curtis Caldwell, một trong các luật sư của văn phòng luật Keller, Roland và Smythe. Tháng sau thuyên chuyển từ Texas đến New York. Tìm một căn hộ cho người độc thân giữa các con đường 65, 72 và đại lộ số Năm. Có thể coi nhà trong ngày hôm nay.”
Lacey đưa mắt âm thầm cám ơn Rick và nói lại với Isabelle:
- Tôi có thể đưa một người đến gặp bà. Hãy cầu may đi. Tôi không biết chắc, nhưng tôi có linh tính có thể chúng ta có được người mua rồi đó.
- Có một ông tên Caldwell đang chờ cô, cô Farrell,- người gác cổng tên Patrick báo cho Lacey khi cô vừa bước xuống xe tắc xi.
Qua cánh cửa kính đục, cô nhìn thấy thân hình mảnh khảnh của một người đàn ông độ bốn mươi tuổi đang gõ gõ tay trong hành lang ra vào.
- Cám ơn trời, cũng may là tôi đi sớm 10 phút.
Patrick mở cửa ra vào cho cô.
- Tôi phải báo cho cô một trục trặc nhỏ,- anh ta nói trong tiếng thở dài.- Máy điều hoà hư rồi và họ đang sửa nó. Ở trong đó nóng nực lắm. Xin cô tin tôi, tôi sẽ về hưu vào tháng Giêng tới đây và cũng đã đến lúc rồi đấy. Bốn mươi năm với công việc này quá đủ cho tôi rồi.
“Hết chỗ nói!” Lacey thầm nghĩ. “ Không có điều hoà vào một ngày oi bức như thế này. Tôi hiểu tại sao người đó có vẻ sốt ruột như thế. Điều này là một điềm không hay cho việc mua bán”.
Trong vài giây, cái khoảnh khắc đủ để cho Lacey đi vào trong hành lang đến trước mặt Caldwell. Đó là ngwoif đàn ông với nước da sạm nắng, tóc vàng xám tro cùng với đôi mắt xanh da trời thật lợt mà cô cảm giác đã gặp ở đâu đó khiến cô hơi do dự đôi chút.
Nhưng khi cô đến và tự giới thiệu mình, một nụ cười thật tươi hiện trên khuôn mặt của Curtis Caldwell. Ông ta còn nói đùa với cô nữa chứ.
- Cô hãy nói thật với tôi đi, cô Farrell, hệ thống điều hoà không khí thường trở chứng như thế trong toà nhà này phải không?

- o O o -

Lúc Lacey điện cho Isabelle Waring để định giờ giấc của cuộc hẹn, bà này cho cô biết là bà sẽ có mặt trong phòng đọc sách và cô hãy vào căn hộ với cái chìa khoá riêng của cô.
Khi bước ra khỏi thang máy cùng Caldwell, Lacey đã cầm sẵn chìa khoá trong tay. Cô mở cửa ra và nói lớn tiếng.
- Là tôi đây bà Isabelle à,- Và cô bước bào trong phòng đọc sách, Caldwell theo sau.
Isabelle đang ngồi tại bàn làm việc nhỏ trong phòng này, lưng xoay ra cửa. Một cặp xếp hồ sơ bằng da được mở ra để cạnh bà, nhiều trang giấy để la liệt trên cái tủ.Isabelle không quay đầu hay xoay người lại để đáp lời chào của Lacey . Bà chỉ nói bằng giọng nặng nề.
- Xin cô cứ tự nhiên và làm như thế tôi không có mặt ở đây.
Trong khi dẫn người khách đi xem căn hộ, Lacey cắt nghĩa vắn tắt sở dĩ căn hộ được rao bán vì nó là tài sảncủa cô con gáo bà Isabelle và nàng đã chết hồi mùa đông năm ngoái trong một tai nạn xe hơi.
Câu chuyện này hình như đã làm cho Caldwell chú ý hơn mức bình thường. Ông có vẻ rất thích nơi đây và không thắc mắc gì với cái giá sáu trăm ngàn đô la. Sau khi quan sát thật kỹ tầng trên, ông nhìn qua cánh cửa sổ căn phòng đọc sách nhỏ và nói với Lacey:
- Cô nói là cô có thể giao nhà vào tháng sau đúng không?
- Đúng vậy,- Lacey đáp lại. Ông ta bắt đầu trả giá đây, cô thầm mong.
- Tôi không thích trả giá cô Farrell à. Tôi sẵn sàng mua với mức giá đó với điều kiện tôi phải chắc là có thể dọn đến vào đầu tháng tới.
- Chúng ta hãy nói chuyện với bà Waring đi,- Lacey đáp lại. cô không tỏ vẻ ngạc nhiên trước lời nói đó. Như cô đã cắt nghĩa cho Rick hồi hôm qua, có nhiều việc xảy đến vào lúc mà ta không bao giờ ngờ tới.
Isabelle không trả lời ngay khi cô gõ cửa căn phòng đọc sách. Lacey xoay lại nói với người khách:
- Thưa ông Caldwell, xin ông vui lòng ngồi chờ tôi trong phòng khách được không. Tôi cần trao đổi với bà Waring một chút.
- Được chứ, thưa cô.
Lacey mở cánh cửa, liếc nhìn bên trong. Isabelle vẫn ngồi nơi bàn làm việc, nhưng giờ đây, đầu bà cúi xuống, trán gần đụng các trang giấy để ngay trước mặt. Hai vai bà run lên.
- Cô đi đi,- bà thì thầm.- Hiện giờ tôi không thể nào nói về chuyện đó được.
- Bà Isabelle à,- cô nói thật nhỏ nhẹ.- Điều này quan trọng lắm. Người này muốn mua căn hộ nhưng có một điều kiện mà tôi cần phải bàn trước với bà.
- Thôi cô đừng nói gì nữa hết. Bây giờ tôi không muốn bán nó nữa. Tôi cần phải ở lại đây thêm một ít lâu nữa.- Giọng Isabelle có vẻ hơi căng thẳng.- Tôi xin lỗi nghe Lacey nhưng hiện giờ tôi không muốn nói đến chuyện này nữa. Cô làm ơn trở lại vào lúc khác đi.
Lacey nhìn đồng hồ. Đã gần bốn giờ rồi.
- Bảy giờ tôi sẽ trở lại,- cô không muốn tranh cãi với bà ta nên đặt một cái hẹn. Hiển nhiên là bà ta gần như muốn khóc.
Cô đóng cửa lại sau khi ra khỏi căn phòng. Curtis Caldwell vẫn đứng trong hành lang giữa phòng đọc sách và phòng khách.
- Bà ta không muốn bán căn hộ nữa à?- Giọng ông ta biểu lộ sự ngạc nhiên. Tôi cứ tưởng là bà ta…
Lacey liền cắt ngang câu nói của ông ta.
- Xin ông xuống dưới cùng tôi được không?- Cô thì thầm.
Họ ngồi trong hành lang của toà nhà trong vài phút.
- Tôi tin chắc là mọi chuyện sẽ êm xuôi thôi, - cô nói để cho ông ta an tâm.- Chiều nay tôi sẽ trở lại để nói chuyện với bà ta. Bà ta vừa phải chịu một thử thách thật đau buồn nhưng bà ta sẽ trấn tĩnh lại thôi. Ông có thể cho tôi số điện thoại để tôi liên lạc với ông vào tối nay được không?
- Tôi đang ở khách sạn Waldorf Towers, tại căn hộ dành cho văn phòng luật Keller, Roland & Smythe.
Họ đứng lên, chuẩn bị ra về.
- Xin ông đừng lo, mọi việc sẽ êm xuôi thôi mà.- Lacey hứa như thế. - Rồi ông sẽ thấy.
Nụ cười của người khách thật khả ái và đầy tin tưởng.
- Tôi không hề nghi ngờ điều đó. Tôi giao cô trọn quyền hành động cô Farrell à.
Ông ta rời khỏi toà nhà để đi bộ từ đường 70 đến khách sạn Essex trong khu vực phía Nam công viên trung tâm rồi bước đến một trạm điện thoại công cộng.
- Bà ta đã tìm ra cuốn nhật ký rồi. Nó nằm trong cặp hồ sơ bằng da, đúng như ông đã nói. Về chuyện bán căn hộ, hình như bà ta đang đổi ý, nhưng cô giao dịch địa ốc nói là tối này sẽ trở lại đó để thuyết phục bà ta.
Rồi ông ta lắng nghe ai đoc nói nơi đầu dây bên kia.
- Tôi sẽ lo,- ông ta trả lời và gác máy.
Sau đó Sandy Savarano, người tự xưng mình là Curtis Caldwell đi đến một quán rượu và gọi cho mình một ly xcốt.
 

CẨM NANG KẾ TOÁN TRƯỞNG


Liên hệ: 090.6969.247

KÊNH YOUTUBE DKT

Cách làm file Excel quản lý lãi vay

Đăng ký kênh nhé cả nhà

SÁCH QUYẾT TOÁN THUẾ


Liên hệ: 090.6969.247

Top