Việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu đạt chuẩn Việt Nam để đồng hành cùng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (DN FDI) trong tuân thủ nghĩa vụ thuế quốc tế và những tác động của chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu (thuế tối thiểu toàn cầu) tới nền kinh tế, đầu tư toàn cầu và Việt Nam đã được các cơ quan chức năng và các chuyên gia kinh tế, tài chính thảo luận khá nhiều trong thời gian vừa qua.
“Các kết quả nghiên cứu, khảo sát cho thấy, các DN không coi ưu đãi thuế là lý do chính để chọn địa điểm đầu tư. Thay vào đó, môi trường chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô, môi trường pháp luật, chất lượng hạ tầng, khả năng chống chịu của hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực mới là yếu tố quyết định để thu hút vốn đầu tư FDI” _ Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam Carolyn Turk
Hạn chế tình trạng đua xuống đáy về ưu đãi thuế
Theo TS. Cấn Văn Lực - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ Quốc gia cho rằng, việc chủ động tham gia triển khai thuế tối thiểu toàn cầu góp phần tăng cường hội nhập quốc tế của Việt Nam nói chung, cải cách hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế nói riêng (cạnh tranh bằng môi trường đầu tư - kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực).
Bởi thuế tối thiểu toàn cầu góp phần tăng nguồn thu từ thuế để tăng cường đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh; hạn chế tình trạng đua xuống đáy về ưu đãi thuế của các nước tiếp nhận đầu tư; giảm thiểu các hiện tượng trốn, tránh thuế, chuyển giá… của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam.
Còn theo ước tính của Tổng cục Thuế trên cơ sở số liệu quyết toán thuế năm 2021, có khoảng 1.115 DN FDI chịu ảnh hưởng, trong đó có khoảng 70-100 DN thuộc diện “nộp thêm thuế”; số thuế TNDN chênh lệch có thể thu thêm khoảng trên 10.000-20.000 tỷ đồng/năm trong năm 2024 (nếu các quốc gia có công ty mẹ đầu tư vào Việt Nam đều áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu).
Tuy nhiên, mức thuế thu thêm này có thể thấp hơn ước tính vì để thực hiện được cần có một hệ thống quản lý thuế hiệu quả, minh bạch hơn và nỗ lực, hiệu quả phối hợp giữa các quốc gia.
Trong bối cảnh các quốc gia láng giềng đang gia tăng hỗ trợ các ưu đãi ngoài thuế nhằm giữ chân, thu hút DN FDI lớn thì Việt Nam cũng sẽ chịu sức ép có cơ chế bồi hoàn, các quy định ưu đãi ngoài thuế để bù đắp phần nào chi phí thuế tăng lên nhằm duy trì khả năng cạnh tranh, giữ chân DN FDI lớn.
TS. Cấn Văn Lực cho rằng, cạnh tranh trong thu hút FDI của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng trong ngắn hạn khi chính sách ưu đãi thuế không còn.
Hiện nay, thuế TNDN trung bình của Việt Nam là 20%, song Việt Nam đang áp dụng cơ chế ưu đãi thuế bao gồm: ưu đãi thuế suất (10% lên đến 15 năm và 20% lên đến 10 năm); miễn, giảm thuế có thời hạn (tối đa đến 9 năm); cho phép chuyển lỗ (trong vòng 5 năm); miễn đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (không áp dụng đối với công ty được đầu tư có lỗ luỹ kế); hoàn thuế cho lợi nhuận tái đầu tư; cho phép được khấu hao nhanh...
Tuy nhiên theo Tổng cục Thuế, hiện nay thuế TNDN thực tế của các DN FDI chỉ là 12,3%, trong đó các tập đoàn lớn nước ngoài chỉ chịu thuế TNDN là 2,75%-5,95%. Do đó, khả năng cạnh tranh trong thu hút FDI của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng phần nào khi khung thuế ưu đãi không còn.
Như vậy, việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu này có thể làm phát sinh chi phí cải cách hệ thống quản lý thuế, thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư và tiến độ triển khai phụ thuộc vào năng lực quản lý của các bộ, ngành, địa phương liên quan do đòi hỏi một hệ thống quản lý thuế có năng lực và nỗ lực phối hợp ở tầm quốc tế cũng là một thách thức lớn đối với các nước đang phát triển với năng lực quản lý thuế thường còn bất cập như Việt Nam.
Bên cạnh đó, các nội dung về thuế tối thiểu toàn cầu được thống nhất về mặt nguyên tắc song một số nội dung vẫn được bảo lưu và chưa được quy định, hướng dẫn chi tiết có thể khiến hoạt động của các tập đoàn, DN đa quốc gia bị ảnh hưởng; các rủi ro pháp lý, tranh chấp có thể xảy ra, từ đó ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư nước ngoài.
Nghiên cứu chính sách hỗ trợ DN FDI không vi phạm quy tắc không phân biệt đối xử
Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Đặng Ngọc Minh, Tổng cục Thuế là đơn vị được Bộ Tài chính giao nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất triển khai áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu tại Việt Nam, vì vậy cơ quan thuế đã tập trung nghiên cứu về nội dung này từ khá sớm theo Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu do Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) khởi xướng.
Hiện Việt Nam đã thu hút FDI từ 142 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó, các đối tác FDI lớn nhất của Việt Nam chủ yếu đến từ khu vực Đông Á, cụ thể: Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore. Việt Nam là quốc gia nhập khẩu vốn FDI.
Trong đó, ngành Thuế đã triển khai khảo sát khu vực DN có vốn FDI số thu NSNN. Thống kê trong 3 năm 2020-2022, số thu thuế TNDN từ khu vực DN FDI trên tổng số thu thuế TNDN chiếm 18% - 21% tổng số thu ngân sách nội địa. Số thu thuế TNDN từ khu vực DN FDI chiếm khoảng 7,5% - 8,5% tổng số thu ngân sách nội địa. Số thu thuế TNDN từ khu vực DN FDI chiếm khoảng 39% - 41% tổng số thu thuế TNDN.
Nêu quan điểm về vấn đề thuế tối thiểu toàn cầu, Phó Tổng cục trưởng Đặng Ngọc Minh cho rằng cần xây dựng các hình thức hỗ trợ nhằm bù đắp cho các DN FDI bị ảnh hưởng do áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu.
Theo đó, phương án triển khai các hình thức hỗ trợ này sẽ tùy theo đặc điểm của từng loại hình DN để có các tiêu chuẩn áp dụng kèm theo. Nói cách khác, cần áp dụng chính sách hỗ trợ thay thế cho những ưu đãi về thuế TNDN đã bị ảnh hưởng bởi quy định về thuế tối thiểu toàn cầu.
“Việc hỗ trợ này được thực hiện thông qua các quy trình thủ tục đăng ký sau khi các DN đã thực hiện nghĩa vụ nộp thuế kể cả thuế bổ sung tối thiểu, nên Chính phủ Việt Nam sẽ không gặp khó khăn trong quá trình huy động nguồn tài chính cũng như thực hiện các thủ tục hỗ trợ tiếp theo. Để có được nguồn tài chính cho các hình thức hỗ trợ nêu trên, cần đảm bảo quyền đánh thuế bằng cách áp dụng cơ chế thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn (QDMTT)” - Phó Tổng cục trưởng Đặng Ngọc Minh chia sẻ.
Theo đó, nếu DN nộp đủ thuế suất 15% tại Việt Nam theo QDMTT, Việt Nam sẽ có đủ nguồn tài chính để hỗ trợ lại các DN các khoản chi phí như chi phí nghiên cứu và phát triển, chi phí đầu tư trang thiết bị, chi phí sản xuất công nghệ cao (Ví dụ: Ấn Độ có chính sách hỗ trợ một khoản tiền nhất định theo mỗi sản phẩm sản xuất bán ra).
Như vậy, chính sách hỗ trợ này sẽ áp dụng chung cho các DN, quy định hỗ trợ sẽ dựa trên đặc điểm, tính chất, tiêu chuẩn của từng loại hình DN, như vậy sẽ không vi phạm quy tắc không phân biệt đối xử và phù hợp với Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu (Trụ cột 2) nằm trong khuôn khổ Chương trình hành động chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS).
Theo Công ước MLI đã ký kết, Việt Nam có quyền không áp dụng một số nội dung về Áp dụng phương pháp xóa bỏ thuế hai lần, áp dụng các thỏa thuận thuế để hạn chế quyền đánh thuế của tổ chức/cá nhân cư trú bên mình... Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng đối với Việt Nam còn phụ thuộc vào phạm vi và đối tượng mà Thỏa thuận thuế tối thiểu toàn cầu điều chỉnh.
Đối với một số tập đoàn DN lớn đang đầu tư ra nước ngoài như Viettel, PVN, Petrolimex, Vingroup... Việt Nam có quyền đánh thuế bổ sung nếu thuộc diện áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu và đang được hưởng mức thuế suất thực tế thấp hơn 15%.
“Các kết quả nghiên cứu, khảo sát cho thấy, các DN không coi ưu đãi thuế là lý do chính để chọn địa điểm đầu tư. Thay vào đó, môi trường chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô, môi trường pháp luật, chất lượng hạ tầng, khả năng chống chịu của hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực mới là yếu tố quyết định để thu hút vốn đầu tư FDI” _ Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam Carolyn Turk
Hạn chế tình trạng đua xuống đáy về ưu đãi thuế
Theo TS. Cấn Văn Lực - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ Quốc gia cho rằng, việc chủ động tham gia triển khai thuế tối thiểu toàn cầu góp phần tăng cường hội nhập quốc tế của Việt Nam nói chung, cải cách hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế nói riêng (cạnh tranh bằng môi trường đầu tư - kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực).
Bởi thuế tối thiểu toàn cầu góp phần tăng nguồn thu từ thuế để tăng cường đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh; hạn chế tình trạng đua xuống đáy về ưu đãi thuế của các nước tiếp nhận đầu tư; giảm thiểu các hiện tượng trốn, tránh thuế, chuyển giá… của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam.
Còn theo ước tính của Tổng cục Thuế trên cơ sở số liệu quyết toán thuế năm 2021, có khoảng 1.115 DN FDI chịu ảnh hưởng, trong đó có khoảng 70-100 DN thuộc diện “nộp thêm thuế”; số thuế TNDN chênh lệch có thể thu thêm khoảng trên 10.000-20.000 tỷ đồng/năm trong năm 2024 (nếu các quốc gia có công ty mẹ đầu tư vào Việt Nam đều áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu).
Tuy nhiên, mức thuế thu thêm này có thể thấp hơn ước tính vì để thực hiện được cần có một hệ thống quản lý thuế hiệu quả, minh bạch hơn và nỗ lực, hiệu quả phối hợp giữa các quốc gia.
Trong bối cảnh các quốc gia láng giềng đang gia tăng hỗ trợ các ưu đãi ngoài thuế nhằm giữ chân, thu hút DN FDI lớn thì Việt Nam cũng sẽ chịu sức ép có cơ chế bồi hoàn, các quy định ưu đãi ngoài thuế để bù đắp phần nào chi phí thuế tăng lên nhằm duy trì khả năng cạnh tranh, giữ chân DN FDI lớn.
TS. Cấn Văn Lực cho rằng, cạnh tranh trong thu hút FDI của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng trong ngắn hạn khi chính sách ưu đãi thuế không còn.
Hiện nay, thuế TNDN trung bình của Việt Nam là 20%, song Việt Nam đang áp dụng cơ chế ưu đãi thuế bao gồm: ưu đãi thuế suất (10% lên đến 15 năm và 20% lên đến 10 năm); miễn, giảm thuế có thời hạn (tối đa đến 9 năm); cho phép chuyển lỗ (trong vòng 5 năm); miễn đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (không áp dụng đối với công ty được đầu tư có lỗ luỹ kế); hoàn thuế cho lợi nhuận tái đầu tư; cho phép được khấu hao nhanh...
Tuy nhiên theo Tổng cục Thuế, hiện nay thuế TNDN thực tế của các DN FDI chỉ là 12,3%, trong đó các tập đoàn lớn nước ngoài chỉ chịu thuế TNDN là 2,75%-5,95%. Do đó, khả năng cạnh tranh trong thu hút FDI của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng phần nào khi khung thuế ưu đãi không còn.
Như vậy, việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu này có thể làm phát sinh chi phí cải cách hệ thống quản lý thuế, thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư và tiến độ triển khai phụ thuộc vào năng lực quản lý của các bộ, ngành, địa phương liên quan do đòi hỏi một hệ thống quản lý thuế có năng lực và nỗ lực phối hợp ở tầm quốc tế cũng là một thách thức lớn đối với các nước đang phát triển với năng lực quản lý thuế thường còn bất cập như Việt Nam.
Bên cạnh đó, các nội dung về thuế tối thiểu toàn cầu được thống nhất về mặt nguyên tắc song một số nội dung vẫn được bảo lưu và chưa được quy định, hướng dẫn chi tiết có thể khiến hoạt động của các tập đoàn, DN đa quốc gia bị ảnh hưởng; các rủi ro pháp lý, tranh chấp có thể xảy ra, từ đó ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư nước ngoài.
Nghiên cứu chính sách hỗ trợ DN FDI không vi phạm quy tắc không phân biệt đối xử
Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Đặng Ngọc Minh, Tổng cục Thuế là đơn vị được Bộ Tài chính giao nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất triển khai áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu tại Việt Nam, vì vậy cơ quan thuế đã tập trung nghiên cứu về nội dung này từ khá sớm theo Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu do Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) khởi xướng.
Hiện Việt Nam đã thu hút FDI từ 142 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó, các đối tác FDI lớn nhất của Việt Nam chủ yếu đến từ khu vực Đông Á, cụ thể: Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore. Việt Nam là quốc gia nhập khẩu vốn FDI.
Trong đó, ngành Thuế đã triển khai khảo sát khu vực DN có vốn FDI số thu NSNN. Thống kê trong 3 năm 2020-2022, số thu thuế TNDN từ khu vực DN FDI trên tổng số thu thuế TNDN chiếm 18% - 21% tổng số thu ngân sách nội địa. Số thu thuế TNDN từ khu vực DN FDI chiếm khoảng 7,5% - 8,5% tổng số thu ngân sách nội địa. Số thu thuế TNDN từ khu vực DN FDI chiếm khoảng 39% - 41% tổng số thu thuế TNDN.
Nêu quan điểm về vấn đề thuế tối thiểu toàn cầu, Phó Tổng cục trưởng Đặng Ngọc Minh cho rằng cần xây dựng các hình thức hỗ trợ nhằm bù đắp cho các DN FDI bị ảnh hưởng do áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu.
Theo đó, phương án triển khai các hình thức hỗ trợ này sẽ tùy theo đặc điểm của từng loại hình DN để có các tiêu chuẩn áp dụng kèm theo. Nói cách khác, cần áp dụng chính sách hỗ trợ thay thế cho những ưu đãi về thuế TNDN đã bị ảnh hưởng bởi quy định về thuế tối thiểu toàn cầu.
“Việc hỗ trợ này được thực hiện thông qua các quy trình thủ tục đăng ký sau khi các DN đã thực hiện nghĩa vụ nộp thuế kể cả thuế bổ sung tối thiểu, nên Chính phủ Việt Nam sẽ không gặp khó khăn trong quá trình huy động nguồn tài chính cũng như thực hiện các thủ tục hỗ trợ tiếp theo. Để có được nguồn tài chính cho các hình thức hỗ trợ nêu trên, cần đảm bảo quyền đánh thuế bằng cách áp dụng cơ chế thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn (QDMTT)” - Phó Tổng cục trưởng Đặng Ngọc Minh chia sẻ.
Theo đó, nếu DN nộp đủ thuế suất 15% tại Việt Nam theo QDMTT, Việt Nam sẽ có đủ nguồn tài chính để hỗ trợ lại các DN các khoản chi phí như chi phí nghiên cứu và phát triển, chi phí đầu tư trang thiết bị, chi phí sản xuất công nghệ cao (Ví dụ: Ấn Độ có chính sách hỗ trợ một khoản tiền nhất định theo mỗi sản phẩm sản xuất bán ra).
Như vậy, chính sách hỗ trợ này sẽ áp dụng chung cho các DN, quy định hỗ trợ sẽ dựa trên đặc điểm, tính chất, tiêu chuẩn của từng loại hình DN, như vậy sẽ không vi phạm quy tắc không phân biệt đối xử và phù hợp với Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu (Trụ cột 2) nằm trong khuôn khổ Chương trình hành động chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS).
Theo Công ước MLI đã ký kết, Việt Nam có quyền không áp dụng một số nội dung về Áp dụng phương pháp xóa bỏ thuế hai lần, áp dụng các thỏa thuận thuế để hạn chế quyền đánh thuế của tổ chức/cá nhân cư trú bên mình... Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng đối với Việt Nam còn phụ thuộc vào phạm vi và đối tượng mà Thỏa thuận thuế tối thiểu toàn cầu điều chỉnh.
Đối với một số tập đoàn DN lớn đang đầu tư ra nước ngoài như Viettel, PVN, Petrolimex, Vingroup... Việt Nam có quyền đánh thuế bổ sung nếu thuộc diện áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu và đang được hưởng mức thuế suất thực tế thấp hơn 15%.
Cần ưu tiên kiện toàn và nâng cao năng lực công tác quản lý thuế
“Khẩn trương ưu tiên kiện toàn và nâng cao năng lực công tác quản lý thuế, công tác cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh vì những công tác này ngày càng nhiều, ngày càng phức tạp, tinh vi, có tính hội nhập cao, xuyên biên giới, cạnh tranh.
Đồng thời cần sớm xây dựng lộ trình triển khai công tác chuẩn bị từ nay đến cuối năm 2023 và các năm tiếp theo, bao gồm các quy định nội luật hóa, quy trình - thủ tục kê khai thuế phù hợp khi áp dụng thuế suất này theo hướng dẫn phù hợp của OECD; đối tượng, phạm vi và phương thức, mức độ hỗ trợ các đối tượng bị ảnh hưởng; đồng thời có kế hoạch truyền thông, tuyên truyền, tập huấn các nội dung chính sách, quy trình liên quan (trong đó nổi bật vấn đề thời điểm áp dụng, cũng như quy định về giải quyết tranh chấp liên quan, có nghiên cứu bổ sung cơ chế trọng tài để giải quyết tranh chấp...)”.
TS. Cấn Văn Lực - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ Quốc gia