LT - Đánh giá trách nhiệm quản lý P4

Luong Bao Vy

Member
Hội viên mới
III. ĐỊNH GIÁ SẢN PHẨM CHUYỂN GIAO

1. Sản phẩm chuyển giao


Sản phẩm chuyển giao là sản phẩm được chuyển giao từ bộ phận này sang bộ phận khác trong cùng một doanh nghiệp.
Định giá sản phẩm chuyển giao là xác định giá chuyển giao cho các sản phẩm chuyển giao.

2. Các phương pháp định giá sản phẩm chuyển giao

Có 3 phương pháp định giá sản phẩm chuyển giao:
- Phương pháp định giá sản phẩm chuyển giao theo chi phí
- Phương pháp định giá sản phẩm chuyển giao theo giá thị trường
- Phương pháp định giá sản phẩm chuyển giao theo thương lượng

a) Định giá sản phẩm chuyển giao theo chi phí

Theo phương pháp này, các chi phí có thể làm cơ sở định giá sản phẩm chuyển giao là:
- Giá thành sản xuất
- Giá thành toàn bộ
- Biến phí đơn vị

Ưu điểm nổi bật của phương pháp định giá sản phẩm chuyển giao theo chi phí là đơn giản, dễ thực hiện. Tuy nhiên, định giá sản phẩm chuyển giao theo chi phí có những nhược điểm sau: - Chỉ có bộ phận nhận chuyển giao cuối cùng mới có thể xác định được kết quả hoạt động kinh doanh.
- Không khuyến khích các bộ phận chuyển giao kiểm soát tốt chi phí.
- Không có căn cứ để ra quyết định chuyển giao.

Để thấy rõ các nhược điểm trên, chúng ta xem ví dụ 6.3.
Ví dụ 6.3:

Công ty X có hai bộ phận A và B. Bộ phận A đang sản xuất sản phẩm Al và bán ra thị trường với giá 30 ngđ/sản phẩm, biến phí đơn vị là 10 ngô sản phẩm. Bộ phận B đang mua sản phẩm A2 từ nhà cung cấp bên ngoài với giá 25 ngđ sản phẩm. Các nhà quản trị Công ty X muốn bộ phận A chuyển toàn bộ năng lực sản xuất sang sản xuất sản phẩm A2 mà bộ phận B cần. Loại sản phẩm này có biến phí đơn vị là 8 ngđ/sản phẩm. Thời gian sản xuất hai loại sản phẩm trên như nhau.

Việc bộ phận A ngừng kinh doanh sản phẩm A1 để chuyển sang sản xuất sản phẩm A2 mà bộ phận B cần dường như là một quyết định đúng đắn vì biến phí đơn vị sản phẩm A2 chỉ có 8 ngđ trong khi biến phí đơn vị sản phẩm Al là 10 ngđ, và bộ phận B lại đang mua từ bên ngoài với giá 25 ngđ/ sản phẩm. Nếu chỉ nhìn vào chi phí (biến phí hoặc giá thành đơn vị) sẽ không cung cấp cho nhà quản trị thông tin cần thiết để đi đến quyết định đúng đắn, do việc sản xuất sản phẩm mới nhìn bề ngoài có vẻ là một quyết định đúng đắn, nhưng đôi khi có thể là sự sai lầm.

Ở ví dụ trên, giả sử giá chuyển giao là biến phí đơn vị (8 ngđ/sản phẩm). thì chỉ có bộ phận nhận chuyển giao cuối cùng sau khi bán ra ngoài mới có thể xác định được lợi nhuận. Các bộ phận khác, như bộ phận A trong ví dụ trên, không có lợi nhuận do giá chuyển giao và chi phí như nhau. Như vậy, việc đánh giá thành quả quản lý bằng ROI và RI không thể thực hiện được.

Định giá sản phẩm chuyển giao theo chi phí, ví dụ theo biến phí đơn vị ở ngời sản phẩm A2, không phải là cơ sở tốt để so sánh với giá cung cấp từ bán ngoài (25 ngđ sản phẩm A2) để đi đến quyết định chuyển giao hay không chuyển giao. Lợi nhuận trên phạm vi toàn công ty có thể bị ảnh hưởng xấu do chuyển giao, nhưng nhà quản trị có thể không hề biết điều đó.

Ở ví dụ trên, nếu giá chuyển giao dựa vào chi phí của bộ phận A được chuyển sang bộ phận B, sẽ không khuyến khích bất kỳ ai kiểm soát chi phí. Bộ phận nhận chuyển giao cuối cùng - bộ phận B, sẽ gánh chịu mọi sự lãng phí và kém hiệu quả từ các bộ phận chuyển giao và trên phạm vi toàn doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu một tỷ suất lợi nhuận kém cỏi so với các đối thủ cạnh tranh.

b) Định giá sản phẩm chuyển giao theo giá thị trường:

Theo phương pháp này, doanh nghiệp có thể chọn giá bán cho khách hàng bên ngoài, hoặc giá bán của sản phẩm tương tự trên thị trường.. để sử dụng làm giá chuyển giao nội bộ doanh nghiệp.

Đây được xem là cách định giá sản phẩm chuyển giao tốt nhất. Vì sử dụng giá thị trường sẽ làm cho việc đánh giá thành quả trên cơ sở lợi nhuận có thể thực hiện được ở nhiều mức độ của một tổ chức. Bằng việc sử dụng giá thị trường để kiểm soát sự chuyển giao, tất cả các bộ phận đều có thể xác định được lợi nhuận chứ không phải chi bộ phận nhận chuyển giao cuối cùng. Cách tiếp còn giá thị trường còn giúp cho các nhà quản trị biết được khi nào nên chuyển giao khi nào không nên.

Nguyên tắc chung trong việc định giá chuyển giao theo giá thị trường là:
+ Bộ phận nhận chuyển giao phải mua của bộ phận chuyển giao trong nội bộ khi bộ phận chuyển giao đáp ứng được tất cả các điều kiện của giá mua ngoài và muốn bán nội bộ.
+ Nếu bộ phận chuyển giao không đáp ứng được tất cả các điều kiện của giá mua ngoài thì bộ phận nhận chuyển giao được quyền mua ngoài.
+ Doanh nghiệp sẽ giải quyết những bất đồng giữa các bộ phận liên quan đến giá chuyển giao để không ảnh hưởng đến mục tiêu chung của doanh nghiệp.

c) Định giá sản phẩm chuyển giao theo thương lượng:
Trong nhiều trường hợp, các bộ phận trong doanh nghiệp có thể tự thương lượng giá chuyển giao thấp hơn giá thị trường. Ví dụ, chi phí bán hàng và quân ký doanh nghiệp có thể được cắt giảm bớt khi chuyển giao nội bộ, hoặc số lượng chuyển giao nội bộ đủ lớn để thực hiện chiết khấu thương mại. Ngoài ra, gia chuyển giao cũng có thể được thương lượng khi sản phẩm chuyển giao được sản xuất từ năng lực sản xuất nhân rồi. Thông tin về chi phí và thị trường có thể được chọn phải có bất kỳ mối liên hệ đặc biệt nào đối với thông tin về chi phí được sử dụng trong sự thương lượng này, nhưng không đòi hỏi giá chuyển giao hoặc thị trường.

3. Nguyên tắc định giá chuyển giao

Mục tiêu của việc định giá chuyển giao là nhằm khuyến khích các nhà quản trị bộ phận có liên quan đến việc chuyển giao hướng đến mục tiêu chung.
Muốn vậy, giá chuyển giao phải kết hợp hài hòa lợi ích của các bên tham gia chuyển giao với lợi ích của toàn doanh nghiệp.

Việc xác định giá chuyển giao tối thiểu làm cơ sở để xác định giá chuyển giao là khởi điểm của việc định giá sản phẩm chuyển giao hướng đến mục tiêu chung. Giá chuyển giao tối thiểu là giới hạn thấp nhất của giá chuyển giao để bỏ phận chuyển giao không bị thiệt hại, đồng thời cũng không có lợi hơn so với bán ra ngoài.

Giá chuyển giao tối thiểu được tính toán theo công thức sau

Giá chuyển giao tối thiểu = Chi phí sản xuất và chuyển giao đơn vị sản phẩm + Chi phí cơ hội từ đơn vị sản phẩm

Chi phí cơ hội ở đây là phản lợi ích lớn nhất bị mất đi xét trên toàn doanh nghiệp nếu sản phẩm được chuyển giao nội bộ. Phải phân biệt chi phí sản xuất và chuyển giao với chi phí cơ hội vì trên sổ kế toán chỉ ghi chép chi phí sản xuất và chuyển giao còn chi phí cơ hội thì không.

Chi phí sản xuất và chuyển giao đơn vị sản phẩm thường là biến phí đơn vị sản phẩm chuyển giao; chi phí cơ hội đơn vị đối với toàn doanh nghiệp là số dư đảm phí bị mất đi tính cho một sản phẩm chuyển giao do mất cơ hội bản ra ngoài vì chuyển giao nội bộ. Lúc này, giá chuyển giao tối thiểu được tính như sau:

Giá chuyển giao tối thiểu = Biến phí đơn vị sản phẩm chuyển giao + Số dư đảm phí bị mất đi tính cho một đơn vị sản phẩm chuyển giao

Theo số liệu ví dụ 6.3 về Công ty X ở trên, giá chuyển giao tối thiểu cho một sản phẩm A2 do bộ phận A sản xuất để chuyển giao cho bộ phận B được tính như sau: (Xem minh họa 6.12).

Minh họa 6.12. Xác định giá chuyển giao tối thiểu

Biến phí đơn vị sản phẩm chuyển giao : 8.000 đồng/sp

Cộng: Số dư đảm phí bị mất đi/sản phẩm chuyển giao: (30.000 đ/sp-10.000 đ/ sp) = 20.000 đồng/ sp

Giá chuyển giao tối thiểu: 28.000 đồng sp

Với giá chuyển giao tối thiểu này, rõ ràng các nhà quản trị của Công ty A sẽ không còn ý định chuyển giao sản phẩm A2 của bộ phận A cho bộ phận B nữa, do mua ngoài với giá chỉ là 25 ngđ/sp trong khi giá chuyển giao tối thiểu lên đến 28 ngđ/sp

Cần phân biệt giá chuyển giao tối thiểu và giá chuyển giao. Giá chuyển giao tối thiểu là cơ sở để xác định giá chuyển giao. Bộ phận chuyển giao chỉ chuyển giao khi giá chuyển giao lớn hơn giá chuyển giao tối thiểu. Đồng thời, bộ phận nhận chuyển giao chỉ nhận chuyển giao khi giá chuyển giao nhà hơn giá cung cấp từ bên ngoài. Do đó, giá chuyển giao sẽ được thương lượng trong khoản từ giá chuyển giao tối thiểu đến giá cung cấp từ bên ngoài.

Trở lại ví dụ trên, nếu giá cung cấp từ bên ngoài cho bộ phận B là 30 ngđ/sp lớn hơn giá chuyển giao tối thiểu (28 ngđ/sp) đã tính ở trên, rõ ràng trong trường hợp này, chuyển giao nội bộ là có lợi trên phạm vi toàn Công ty X. Nhưng giá chuyển giao là bao nhiêu? Nếu giá chuyển giao đúng bằng giá chuyển giao tối thiểu (28 ngđ/sp) bộ phận A sẽ không có lợi gì hơn so với vẫn tiếp tục sản xuất sản phẩm A để bán ra ngoài. Nếu được phân quyền cao, bộ phận A có quyền từ chối sản xuất sản phẩm A2. Ngược lại, nếu giá chuyển giao đúng bằng giá cung cấp từ bên ngoài cho bộ phận B (30 ngđ/sp), bộ phận B có quyền từ chối mua từ bộ phận A do không có lợi gì hơn so với mua ngoài. Cả hai trường hợp trên, xét trên phạm vi tổng thể Công ty X đều bất lợi. Nếu giá chuyển giao nằm trong khoảng từ 28 ngđ/sp (giá chuyển giao tối thiểu) đến 30 ngđ/sp (giá cung cấp từ bên ngoài) thì bộ phận A, B và Công ty X cùng có lợi từ việc chuyển giao sản phẩm A2.

Lưu ý rằng nếu không có số dư đảm phí nào bị mất đi trên phạm vi toàn doanh nghiệp (do sản phẩm chuyển giao được sản xuất từ năng lực sản xuất nhàn rỗi), thì giá chuyển giao tối thiểu chính là biến phí đơn vị sản phẩm chuyển giao.

Trở lại ví dụ trên, nếu sản phẩm A2 được sản xuất từ năng lực sản xuất nhàn rỗi của bộ phận A, khi đó bộ phận A không bị mất cơ hội bán sản phẩm A2 ra ngoài, do đó không có chi phí cơ hội trong trường hợp này, lúc này giá chuyển giao tối thiểu đúng bằng biến phí đơn vị sản phẩm A2 mà bộ phận B cấn 8 ngđ). Lúc này, giá chuyển giao tối thiểu (8 ngđ/sp) lại là cơ sở để đi đến quyết định chuyển giao hay không. Chỉ cần giá cung cấp từ bên ngoài cho bộ phận B lớn hơn 8 ngđ/sp (giá chuyển giao tối thiểu) là có thể đi đến quyết định chuyển giao.

Định giá chuyển giao theo nguyên tắc trên sẽ khắc phục được các nhược điểm của cách định giá chuyển giao dựa vào chi phí, cụ thể là:
- Giúp các nhà quản trị ở các bộ phận chuyển giao cũng như nhận chuyển giao có thể xác định được thành quả quản lý – cơ sở để đánh giá thành quả quản lý qua các chỉ tiêu ROI và RI
- Khuyến khích các nhà quản trị ở tất cả các bộ phận kiểm soát tốt chi phí để đạt thành quá cao hơn.
- Bằng cách so sánh giá chuyển giao tối thiểu với giá cung cấp từ bên ngoài, giúp các nhà quản trị ở các bộ phận có thể biết được nên hay không nên chuyển giao nội bộ.

Khó khăn trong việc thực hiện nguyên tắc chung

Nguyên tắc chung để định giá chuyển giao luôn luôn thúc đẩy việc ra quyết định hưởng đến mục tiêu chung, nếu được thực thi. Tuy nhiên, nguyên tắc trên thường khó hoặc không thể thực thi do khó khăn trong việc đo lường chi phí ca hội. Việc đo lường chi phí cơ hội sẽ gặp nhiều khó khăn vì một số lý do. Một trong những lý do là thị trường bên ngoài có thể không phải là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá thị trường không phụ thuộc vào số lượng được bán ra bởi bất kỳ nhà sản xuất nào. Trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, một nhà sản xuất lớn có thể tác động đến giá thị trường bằng cách thay đổi số lượng sản phẩm có trên thị trường. Trung trường hợp đó, giá thị trường bên ngoài phụ thuộc vào quyết định sản xuất của nhà sản xuất. Điều đó có nghĩa là chi phí cơ hội mà doanh nghiệp phải chịu do chuyển giao nội bộ phụ thuộc vào số lượng sản phẩm bán ra bên ngoài. Sự tác động qua lại này có thể làm cho doanh nghiệp không thể đo lường chính xác chi phí cơ hội được tạo ra từ việc chuyển giao sản phẩm.

Những lý do khác gây nên sự khó khăn trong việc đo lường chi phí cơ hội gắn với việc chuyển giao, bao gồm sản phẩm được chuyển giao không chỉ một loại, nhu cầu đầu tư vào thiết bị mới của bộ phận sản xuất là để tạo ra các sản phẩm chuyển giao, và sự phụ thuộc lẫn nhau của nhiều sản phẩm được chuyển giao. Ví dụ, bộ phận chuyển giao vừa cung cấp sản phẩm vừa cung cấp dịch vụ thiết kế cho bộ phận nhận chuyển giao. Chi phí cơ hội gắn với từng loại khối lượng chuyển giao của bộ phận chuyển giao là bao nhiêu? Trong nhiều trường hợp như thế thật khó chỉ ra chi phí cơ hội.
 

CẨM NANG KẾ TOÁN TRƯỞNG


Liên hệ: 090.6969.247

KÊNH YOUTUBE DKT

Cách làm file Excel quản lý lãi vay

Đăng ký kênh nhé cả nhà

SÁCH QUYẾT TOÁN THUẾ


Liên hệ: 090.6969.247

Top