Những chính sách mới bắt đầu có hiệu lực từ tháng 1/2020
Lương tối thiểu vùng tăng lên, các công ty tài chính chỉ được nhắc nợ tối đa 5 lần/ngày, nhiều vi phạm về đất đai bị phạt đến 1 tỷ đồng… là những chính sách mới nổi bật có hiệu lực từ tháng 1/2020.
1. Chính thức tăng lương tối thiểu vùng từ 1/1/2020
Quy định trên có tại
Nghị định 90/2019/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 15/11/2019 quy định về mức lương tối thiểu vùng với người lao động (NLĐ) làm việc theo hợp đồng lao động.
Như vậy, mức lương tối thiểu vùng mới được áp dụng cho NLĐ làm việc ở doanh nghiệp với 4 mức, tương ứng 4 vùng lương. Cụ thể:
- Mức lương tối thiểu vùng I tăng 240.000đ, lên 4.420.000đ/tháng;
- Mức lương tối thiểu vùng II tăng 210.000đ, lên 3.920.000đ/tháng;
- Mức lương tối thiểu vùng III tăng 180.000đ, lên 3.430.000đ/tháng;
- Mức lương tối thiểu vùng IV tăng 150.000đ, lên 3.070.000đ/tháng.
Nghị định 90/2019/NĐ-CP cũng nêu rõ, mức lương tối thiểu vùng mới này là mức thấp nhất làm cơ sở để DN và NLĐ thỏa thuận và trả lương. Với NLĐ làm công việc đòi hỏi lao động đã qua học nghề, đào tạo nghề, mức lương phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng trên.
2. Công ty tài chính chỉ được nhắc nợ tối đa 5 lần/ngày
Thông tư 18/2019/TT-NHNN do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành ngày 4/11/2019, có hiệu lực từ ngày 1/1/2020 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 43/2016/TT-NHNN quy định cho vay tiêu dùng của công ty tài chính.
Theo đó, các biện pháp đôn đốc, thu hồi nợ mà công ty tài chính thực hiện phải phù hợp với đặc thù của khách hàng cũng như quy định của pháp luật và không bao gồm biện pháp đe dọa với khách hàng. Cụ thể là: Số lần nhắc nợ tối đa 5 lần/ngày; Hình thức nhắc nợ và thời gian nhắc nợ do các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho vay tiêu dùng nhưng phải trong khoảng thời gian từ 7g00 - 21g00.
Ngoài ra, tổng dư nợ cho vay tiêu dùng giải ngân trực tiếp cho khách hàng tại một công ty tài chính so với tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng của công ty tài chính đó tại thời điểm cuối ngày làm việc liền kề trước ngày ký kết hợp đồng, giải ngân trực tiếp cho khách hàng phải tuân thủ tỷ lệ tối đa theo lộ trình sau:
Từ ngày 1/1/2021 đến hết ngày 31/12/2021 là 70%. Từ ngày 1/1/2022 đến hết ngày 31/12/2022 là 60%. Từ ngày 1/1/2023 đến hết ngày 31/12/2023 là 50%. Từ ngày 1/1/2024 trở đi là 30%.
3. Các trường hợp miễn kiểm tra ANTP trước thông quan
Từ 1/1/2020, Nghị định
85/2019/NĐ-CP quy định về thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa quốc gia, cơ chế một cửa ASEAN và kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu sẽ chính thức có hiệu lực.
Theo đó, ngoài các trường hợp miễn kiểm tra chuyên ngành theo quy định của pháp luật, Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các trường hợp dưới đây được miễn kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm:
- Hàng hóa nhập khẩu gửi qua dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh có trị giá hải quan được miễn thuế theo quy định của pháp luật về thuế;
- Hàng hóa nhập khẩu trong danh mục và định lượng miễn thuế theo quy định của pháp luật phục vụ cho công tác và sinh hoạt của tổ chức nước ngoài được hưởng quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao;
- Hành lý của người nhập cảnh trong định mức miễn thuế;
- Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ.
4. Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia 2019 chính thức có hiệu lực
Bắt đầu từ ngày 1/1/2020, một loạt hành vi dưới đây sẽ bị nghiêm cấm:
- Điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn;
- Xúi giục, kích động, lôi kéo, ép buộc người khác uống rượu, bia;
- Người chưa đủ 18 tuổi uống rượu, bia; bán, cung cấp rượu, bia cho người chưa đủ 18 tuổi…
- Cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, tổ chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, chiến sĩ uống rượu, bia ngay trước, trong giờ làm việc và nghỉ giữa giờ làm việc;...
Ngoài ra, cũng theo Luật này, không được uống rượu, bia ở nơi công cộng, bệnh viện, trường học, nơi vui chơi của trẻ em… Đồng thời, không được mở mới điểm bán rượu, bia để tiêu dùng tại chỗ như các nhà hàng, quán nhậu… trong bán kính 100m tính từ khuôn viên của cơ sở y tế, nhà trẻ, trường học...
5. Tăng mức phạt đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực về đất đai
Nội dung này có tại
Nghị định số 91/2019/NĐ-CP thay thế Nghị định 102/2014/NĐ-CP hiện hành. Theo đó, Nghị định này tăng hàng loạt mức phạt đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này, điển hình như:
- Phạt cá nhân đến 500 triệu đồng và 1 tỷ đồng với tổ chức nếu lấn, chiếm đất chưa sử dụng, đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp (tăng 100 lần so với mức phạt trước đây);
- Phạt cá nhân đến 500 triệu đồng và 1 tỷ đồng với tổ chức nếu tự ý chuyển từ đất trồng lúa sang đất ở (tăng 10 lần mức phạt so với trước đây);
- Phạt cá nhân đến 20 triệu đồng và 40 triệu đồng với tổ chức nếu chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không có Sổ đỏ (tăng 4 lần mức phạt so với trước đây);
- Phạt cá nhân đến 5 triệu đồng và 10 triệu đồng với tổ chức nếu không sang tên Sổ đỏ khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất (tăng 2 lần mức phạt so với trước đây);
- Phạt đến cá nhân đến 10 triệu đồng và 20 đồng với tổ chức nếu bỏ hoang đất mà không thuộc trường hợp bất khả kháng (mức phạt này trước đây chưa quy định).
Đồng thời, Nghị định bổ sung quy định mới, xử phạt với trường hợp tổ chức thực hiện dự án kinh doanh BĐS không nộp hồ sơ làm thủ tục cấp Sổ đỏ cho người mua, công trình xây dựng, thuê mua nhà, người nhận chuyển quyền sử dụng đất hoặc không cung cấp, cung cấp không đầy đủ giấy tờ cho người mua. Mức phạt tiền sẽ căn cứ vào thời gian và phạm vi căn hộ công trình xây dựng vi phạm. Cụ thể:
- Vi phạm từ 50 ngày đến 6 tháng: mức phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 30 triệu đồng với trường hợp vi phạm dưới 30 căn hộ; tối đa 50 triệu đồng với phạm vi từ 30 đến 100 căn hộ, trên 100 căn hộ với mức phạt tối đa 100 triệu đồng.
- Vi phạm thời gian từ 6 - 9 tháng: mức phạt cao nhất lên tới 300 triệu đồng với trường hợp từ 100 căn hộ. Đặc biệt, vi phạm từ 12 tháng trở lên với phạm vi từ 100 căn hộ sẽ bị phạt đến 1 tỷ đồng và buộc nộp hồ sơ hoặc cung cấp đầy đủ giấy tờ cho người mua.
Với cá nhân, Nghị định cũng quy định trường hợp Toà án nhân dân và cơ quan hành chính các cấp yêu cầu cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu liên quan đến đất đai để thanh tra, kiểm tra, thu thập chứng cứ giải quyết tranh chấp mà vượt quá thời hạn yêu cầu nhưng không cung cấp sẽ bị phạt tiền từ 2 – 3 triệu đồng.
Trường hợp cá nhân sử dụng giấy tờ giả trong thực hiện thủ tục hành chính và các công việc khác liên quan tới đất đai mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị phạt tiền từ 10 – 30 triệu đồng.
Xem thêm: Phần mềm kế toán BRAVO