Kế toán quản trị ra đời chủ yếu phục vụ cho nhu cầu nội bộ của doanh nghiệp. Đối với các cổ đông, các chủ nợ, hội đồng quản trị và tổng giám đốc doanh nghiệp, kế toán quản trị cung cấp thông tin về tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian bất kỳ. Quan trọng hơn, kế toán quản trị còn giúp cho các nhà quản lý đánh giá được hiệu quả của một kế hoạch để có thể kịp thời điều chỉnh hoạt động và ra mục tiêu.
Vì lẽ đó, kế toán quản trị có một số đặc điểm khác so với kế toán thông thường:
(i) chủ yếu phục vụ mục tiêu nội bộ doanh nghiệp;
(ii) không nhất thiết phải tuân theo các chuẩn mực;
(iii) chứa đựng những thông tin tài chính, phi tài chính cũng như những đánh giá chủ quan;
(iv) nhấn mạnh đến kết quả tương lai; và,
(v) đánh giá nội bộ, dựa trên những thông tin cụ thể.
Kế toán quản trị sơ khởi là những bản ghi chép thu và chi tiền mặt, và thống kê những tài sản "quý giá" của công ty, thời bấy giờ là lương thực và các loại quặng quý. Từ năm 1400-1600, những khái niệm cơ sở về thực hành kế toán quản trị theo phương pháp hiện tại bắt đầu phát triển. Đầu thế kỷ 20, nhu cầu đánh giá hoạt động của những bộ phận trong doanh nghiệp ngày càng lớn cùng với sự phát triển của các công ty lớn, có tổ chức. Những đột phá về hệ thống đánh giá chi phí và hoạt động nở rộ vào nửa cuối thế kỷ 20.
Xu hướng hiện tại của kế toán quản trị là quản lý dựa trên hoạt động, tập trung vào việc tăng giá trị sử dụng cho khách hàng và lợi nhuận cuối cùng. Những người làm kế toán quản trị thường được gọi là financial controller. Một vài chương trình đào tạo kế toán là CPA, CIA và CMA, trong đó CMA là chương trình chuyên đào tạo kế toán QT. Chương trình CPA đã được biết tới khá nhiều trong ngành kế toán tài chính tại Việt Nam, và CIA là chương trình đào tạo kiểm toán nội bộ.
Vì lẽ đó, kế toán quản trị có một số đặc điểm khác so với kế toán thông thường:
(i) chủ yếu phục vụ mục tiêu nội bộ doanh nghiệp;
(ii) không nhất thiết phải tuân theo các chuẩn mực;
(iii) chứa đựng những thông tin tài chính, phi tài chính cũng như những đánh giá chủ quan;
(iv) nhấn mạnh đến kết quả tương lai; và,
(v) đánh giá nội bộ, dựa trên những thông tin cụ thể.
Kế toán quản trị sơ khởi là những bản ghi chép thu và chi tiền mặt, và thống kê những tài sản "quý giá" của công ty, thời bấy giờ là lương thực và các loại quặng quý. Từ năm 1400-1600, những khái niệm cơ sở về thực hành kế toán quản trị theo phương pháp hiện tại bắt đầu phát triển. Đầu thế kỷ 20, nhu cầu đánh giá hoạt động của những bộ phận trong doanh nghiệp ngày càng lớn cùng với sự phát triển của các công ty lớn, có tổ chức. Những đột phá về hệ thống đánh giá chi phí và hoạt động nở rộ vào nửa cuối thế kỷ 20.
Xu hướng hiện tại của kế toán quản trị là quản lý dựa trên hoạt động, tập trung vào việc tăng giá trị sử dụng cho khách hàng và lợi nhuận cuối cùng. Những người làm kế toán quản trị thường được gọi là financial controller. Một vài chương trình đào tạo kế toán là CPA, CIA và CMA, trong đó CMA là chương trình chuyên đào tạo kế toán QT. Chương trình CPA đã được biết tới khá nhiều trong ngành kế toán tài chính tại Việt Nam, và CIA là chương trình đào tạo kiểm toán nội bộ.