Theo hướng dẫn của TT129 thì:
Đến công văn 10220/BTC-TCT ngày 20/07/2009 thì có thêm một đoạn như thế này:
Theo TT129 thì đến thời điểm thanh toán mà không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì số thuế GTGT đó không được khấu trừ. Nhưng đến công văn 10220 thì số thuế đó vẫn có khả năng được khấu trừ nếu sau đó chứng minh được có chứng từ thanh toán qua ngân hàng.
Như vậy, TT129 thì "chốt hạ" nhưng bị Công văn 10220 "ăn con chốt hạ" vậy Công văn 10220 mới là con "chốt hạ". Theo cách hướng dẫn của Công văn 10220 thì doanh nghiệp không cần bận tâm lắm đến cái thời hạn trong hợp đồng thanh toán chậm. Vì chỉ cần vài thao tác đưa vào lấy ra thì có thể được khấu trừ thuế, miễn sao có chứng từ là được.
Theo mọi người thì Công văn 10220 với hướng dẫn như trên liệu có ổn hay không?
Trường hợp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng, cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng nếu không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, cơ sở kinh doanh phải kê khai, điều chỉnh giảm số thuế giá trị gia tăng đầu vào đã khấu trừ của giá trị hàng hoá không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng.
Đến công văn 10220/BTC-TCT ngày 20/07/2009 thì có thêm một đoạn như thế này:
Căn cứ hướng dẫn trên, trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào được thanh toán theo phương thức trả chậm, trả góp có giá trị hàng hoá dịch vụ mua trên 20 triệu đồng, cơ sở kinh doanh vẫn được khấu trừ thuế, đến thời hạn thanh toán nếu không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, cơ sở kinh doanh phải kê khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ của giá trị hàng hoá không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Sau khi cơ sở kinh doanh đã điều chỉnh giảm số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ tương ứng với giá trị hàng hoá không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì cơ sở kinh doanh mới có được chứng từ chứng minh việc thanh toán qua ngân hàng thì cơ sở kinh doanh có quyền khai bổ sung nhưng phải trước khi cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế.
Theo TT129 thì đến thời điểm thanh toán mà không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì số thuế GTGT đó không được khấu trừ. Nhưng đến công văn 10220 thì số thuế đó vẫn có khả năng được khấu trừ nếu sau đó chứng minh được có chứng từ thanh toán qua ngân hàng.
Như vậy, TT129 thì "chốt hạ" nhưng bị Công văn 10220 "ăn con chốt hạ" vậy Công văn 10220 mới là con "chốt hạ". Theo cách hướng dẫn của Công văn 10220 thì doanh nghiệp không cần bận tâm lắm đến cái thời hạn trong hợp đồng thanh toán chậm. Vì chỉ cần vài thao tác đưa vào lấy ra thì có thể được khấu trừ thuế, miễn sao có chứng từ là được.
Theo mọi người thì Công văn 10220 với hướng dẫn như trên liệu có ổn hay không?