Tổng hợp các bài viết về phân tích BCTC!

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.

Dragon489

Member
Hội viên mới
Tổng hợp về phân tích BCTC
I. Tổng quan về báo cáo tài chính:

I.1. Tại sao cần báo cáo tài chính:

Lý do đơn giản và dễ thấy nhất là để biết trạng thái tài chính của một tổ chức (lợi nhuận, phi lợi nhuận) nhằm đưa ra các quyết định phù hợp. Ví dụ, bạn định mua một ngôi nhà chẳng hạn, bạn cần biết bạn hiện đang có bao nhiêu tiền (đã tiết kiệm đủ bao nhiêu tiền) để mua ngôi nhà đó, thiếu bao nhiêu, phải đi vay bao nhiêu. Bạn chỉ biết được trạng thái tài chính của bạn, nếu như bạn có một bản tổng hợp về tình hình tài chính của bạn, tại thời điểm bạn định mua nhà, bản tổng hợp đó được gọi là báo cáo tài chính. Lý do khác, chỉ thấy một cách gián tiếp là báo cáo tài chính cho ta biết tình hình hoạt động của tổ chức (ở đây ta quy ước tổ chức là các đơn vị hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và phi lợi nhuận), thông qua đó, góp phần đánh giá năng lực của (a) bộ máy lãnh đạo tổ chức đó, (b) các hoạt động của tổ chức đó. Ví dụ như báo cáo tài chính của công ty Toyota năm nay cho thấy một số lãi là 10 tỷ đô, vậy (a) công ty Toyota- như một tập thể hoạt động rất tốt, trơn tru, từ khâu sản xuất, bán hàng, v.v., và (b) công ty Toyota có một bộ máy lãnh đạo rất giỏi, có khả năng lãnh đạo công ty tạo ra lợi nhuận lớn, làm giàu cho cổ đông. Dĩ nhiên, chỉ mình báo cáo tài chính không thôi thì không đủ đánh giá khả năng lãnh đạo của Ban giám đốc Công ty, vì rằng tiêu thức tài chính chỉ là một trong số rất nhiều tiêu thức để đánh giá năng lực của Ban lãnh đạo Công ty. Cũng giống như khi bạn (gái) chọn người yêu chẳng hạn, nếu một gã nào đó nói với bạn là gã là “triệu phú tiền đô” chẳng hạn thì bạn cũng vẫn phải cẩn thận, cho dù gã thật sự có nhiều triệu tiền đô thì (a) tiền đó chưa chắc của gã làm ra (mà tiền của ai đó cho gã chẳng hạn), (b) nếu tiền đó do gã làm ra thì chưa chắc đã phải được làm ra theo một cách chính đáng (ví dụ của Tổng Giám đốc PMU18 minh họa rất rõ điều này).Một lý do chủ yếu khác nữa là báo cáo tài chính là một công cụ để thực hiện công tác quản trị doanh nghiệp (corporate governance). Phần này sẽ được trình bày rõ ở phần Báo cáo tài chính trong công tác Quản trị Doanh nghiệp nói chung.

I. 2. Người lập báo cáo tài chính:

Ai lập báo cáo tài chính: các bạn kế toán sẽ nói, là kế toán tổng hợp của doanh nghiệp. Một số các bạn kiểm toán sẽ nói, là các bạn kiểm toán lập (vì nhiều khi đi tới doanh nghiệp, có ai lập báo cáo tài chính đâu, kiểm toán toàn phải lập hộ). Câu trả lời của các bạn kế toán là đúng nhưng chưa đủ. Người lập báo cáo tài chính là ban lãnh đạo công ty. Chịu trách nhiệm về việc lập báo cáo tài chính, hoặc nói sâu hơn là chịu trách nhiệm về tính trung thực và hợp lý của Báo cáo tài chính là Ban lãnh đạo công ty, mà người chịu trách nhiệm cao nhất là Giám đốc (Tổng Giám đôc), hoặc người đứng đầu bộ máy điều hành doanh nghiệp (CEO- Chief Executive Officer). Các bạn kế toán chỉ là những con kiến bé tí teo trong bộ máy giúp việc của quý ngài Tổng Giám đốc, mặc dù nhiều khi các bạn thấy là báo cáo do các bạn lập hết, quý ngài chỉ có đặt bút ký mà thôi. Ở đây cần phải nói thêm là người đứng đầu công ty còn phụ thuộc vào từng mô hình, ví dụ, nếu là mô hình công ty cổ phần, người đứng đầu công ty không phải là tổng giám đốc (CEO) mà là chủ tịch hội đồng quản trị (Board of Directors), trong trường hợp này, chủ tịch hội đồng quản trị là người chịu trách nhiệm về tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính, mặc dù ông ta không phải là người trực tiếp lập.

I. 3. Người sử dụng báo cáo tài chính

Có rât nhiều người sử dụng báo cáo tài chính. Chia theo sự liên quan của lợi ích ta có thể chia thành hai loại chính: Cổ đông (hoặc chủ sở hữu của công ty- Shareholders) và những người có lợi ích liên quan- Stakeholders.Cổ đông (hoặc chủ sở hữu công ty) hơn ai hết cần biết công ty của họ hoạt động thế nào, hiệu quả ra sao, qua đó (a) xác đinh được giá trị đầu tư của họ trong doanh nghiệp được tăng lên như thế nào và (b) liệu thù lao trả cho ban giám đốc doanh nghiệp có tương xứng với lợi ích mà ban giám đốc mang lại cho chủ sở hữu doanh nghiệp hay không. Ở đây ta có một giả định quan trọng là có sự phân tách giữa người chủ công ty và ban lãnh đạo công ty. Ban lãnh đạo (ban giám đốc) công ty là người làm thuê cho chủ công ty, nhận được thù lao, và thù lao ấy phụ thuộc vào hiệu quả của việc lãnh đạo công ty, và hiệu quả của việc lãnh đạo công ty, đối với cổ đông, được thể hiện chủ yếu bằng các chỉ tiêu tài chính, thể hiện trên các báo cáo tài chính. Lưu ý là giả định về sự phân tách giưũa chủ công ty và ban lãnh đạo công ty là rất quan trọng, nó đồng thời dẫn đến rất nhiều hệ quả khác như các quy định trong khuôn khổ quản trị doanh nghiệp, hoặc các quy định về kiểm toán chẳng hạn.Những bên có lợi ích liên quan có rất nhiều, ví dụ chủ nợ, ngân hàng, con nợ, khách hàng (khách hàng hiện tại hoặc tiềm năng), nhà đầu tư (hiện tại và tiềm năng), người làm công, cơ quan thuế, công chúng và nhiều nhiều đối tượng khác nữa. Mỗi loại stakeholder, vì lợi ích của mình mà có nhu cầu thông tin (được thể hiện trên báo cáo tài chính). Ví dụ chủ nợ và nhà cung cấp muốn biết là công ty có khả năng trả nợ hay không để cho vay tiếp, hay ngừng cho vay, hay đòi luôn lập tức những khoản thậm chí chưa đến hạn, cơ quan thuế thì muốn biết công ty lãi lời bao nhiêu để gõ thuế, người làm công muốn biết khả năng tồn tại của công ty được bao lâu, và thiết thực hơn, khả năng tăng lương được cho anh em là bao nhiêu để còn hoạch định kế hoạch cá nhân. Còn công chúng thì sao, công chúng muốn biết công ty đóng góp được gì cho xã hội, cho môi trường, ví dụ, tạo được ra bao nhiêu công ăn việc làm, nộp được bao nhiêu thuế cho nhà nước, v.v.. Thậm chí đối thủ cạnh tranh cũng muốn biết hơn ai hết sô liệu tài chính của công ty để còn xây dựng chiến lược đối phó.Ở đây, thực ra còn một loại người sử dụng thông tin nữa, rất quan trọng, là chính bản thân ban lãnh đạo công ty, những người phụ trách việc báo cáo các thông tin đó. Lãnh đạo doanh nghiệp cần biết thông tin (a) để có quyết định lãnh đạo điều hành phù hợp, (b) để xem hình ảnh của mình được thể hiện về mặt tài chính như thế nào trong cách nhìn nhận của những người sử dụng thông tin. Ở đây cần nói ngay rằng nhu cầu thông tin của ban lãnh đạo doanh nghiệp đối với các báo cáo quản trị (báo cáo kế toán quản trị) là lớn hơn nhiều, chi tiết hơn nhiều so với nhu cầu về các thông tin trên các báo cáo tài chính.

I.4. Nguyên tắc lập các báo cáo tài chính

Còn nhớ thời học kế toán đại cương, khi yêu cầu đối với kế toán là phải cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ. Tuy nhiên, yêu cầu đối với báo cáo tài chính có lẽ hơi khác so với yếu cầu đối với kế toán, nghĩa là theo VAS 21 (Tên của VAS)__ thì Việc lập và trình bày báo cáo tài chính phải tuân thủ các yêu cầu sau:
1. Báo cáo tài chính phải trình bày một cách trung thực và hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp.
2. Các báo cáo tài chính phải được lập và trình bày trên cơ sở tuân thủ các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định có liên quan hiện hành.Các yêu cầu nêu trên được trích từ VAS 21- Trình bày báo cáo tài chính, ở đây có một số phân tích sau:
Thứ nhất: thế nào là trung thực và hợp lý: VAS 21 chỉ nói rằng là báo cáo tài chính cần trình bày một cách trung thưc và hợp lý, và chỉ ra rằng muốn trình bày trung thực và hợp lý thì phải tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam mà không đưa ra định nghĩa thế nào là trung thực và hợp lý. IAS1 (bản sửa đổi) nói rõ hơn một chút là trình bày trung thực và hợp lý là thể hiện một cách trung thực (faithful representation) các nghiệp vụ, sự kiện tuân thủ các định nghĩa và điều kiện ghi nhận trong khuôn khổ của các chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế, và cũng giống như VAS, không đưa ra định nghĩa thế nào là trung thực và hợp lý (true and fair). Vậy thì thế nào là trung thực và hợp lý?Trung thực là không phải… không trung thực (nghe có vẻ buồn cười) nhưng đúng là như vậy, nghĩa là trung thực là phản ánh đúng bản chất các giao dịch, sự kiện và nghiệp vụ (chứ không phải là phản ánh sai), và hợp lý ở đây là phản ánh một cách công bằng, khách quan, không có thành kiến, định kiến, thiên vị. Thực ra không có định nghĩa chặt chẽ thế nào là trung thực và hợp lý, vì thế, khi người ta nói trung thực và hợp lý, nghĩa là người ta nói phải tuân thủ với các chuẩn mực và chế độ, vì chuẩn mực và chế độ là để nhằm có các trình bày… một cách trung thực và hợp lý! Hoặc chúng ta có thể hiểu một cách khác, tức là trung thực và hợp lý là không có các sai khác một cách trọng yếu. Và ở đây, may mắn thay, chúng ta có định nghĩa về tính trọng yếu. Một khoản mục được coi là trọng yếu nếu việc thêm vào, hoặc bớt đi khoản mục đó, sẽ dẫn tới một sự hiểu khác đối với chủ thể được báo cáo. Lấy ví dụ nôm na thế này, giả sử tôi có một phát biểu rất trung thực và hợp lý là chị Nguyễn Tú Anh rất xinh đẹp. Nghĩa là phát biểu của tôi phải không sai, nghĩa là đúng chị ấy xinh đẹp (theo như các thông lệ được thừa nhận rộng rãi, tức là cao 1m70, kích thước 3 vòng là 90- 60 – 90, là có da trắng như tuyết, môi đỏ như son, tóc đen như gỗ mun chẳng hạn) và người được phát biểu (là tôi) không có định kiến gì với chị Tú Anh (nghĩa là tôi không yêu cũng không ghét gì chị ta cả). Đấy là cách hiểu thứ nhất. Cách hiểu thứ hai là không có các sai khác trọng yếu so với các thông lệ. Giả sử thế này, có một sai khác là chị Tú Anh nặng những 90 kg, giả sử không có thông tin này, mọi người sẽ hình dung là chị Tú Anh là người xinh đẹp, mảnh mai, nhưng có thông tin này mọi người có thể sẽ không nghĩ như vậy nữa. Vậy là thông tin chị Tú Anh nặng những 90 kg là thông tin mang tính trọng yếu. Nếu như trong phát biểu của tôi mà tôi nói chị Tú Anh xinh đẹp mà tôi không hề đả động tới các sai khác mang tính trọng yếu như trên thì phát biểu của tôi là không trung thực và hợp lý. Lủng củng thế đây, hy vọng là chị Tú Anh không dung quyền của SMOD để xóa đoạn này đi nhé!.
Thứ hai, tại sao lại là trung thực và hợp lý chứ không phải là chính xác, đầy đủ: Phải là trung thực và hợp lý chứ không phải là chính xác và đầy đủ vì xin thưa rằng kế toán không thể nào trình bày chính xác 100% các số liệu được. Mới nghe thì có vẻ hơi lạ, nhưng thực tế là như vậy. Lấy ví dụ đơn giản thế này, cuối năm bạn phải trích trước chi phí điện, nước cho tháng 12 mặc dù bạn chưa nhận được hóa đơn của tháng 12, bạn sẽ trích trước bao nhiêu? Giả sử bạn trích trước là 10 triệu, nhưng hóa đơn thực sự là 10 triệu không trăm nghìn năm trăm đồng, bạn cũng là không phản ánh chính xác nghiệp vụ này rồi. Có rất nhiều ví dụ đại loại như vậy, mà ví dụ lớn nhất là báo cáo tài chính được soạn lập trên giả định doanh nghiệp hoạt động liên tục, bạn có thể chắc chắn bao nhiêu phần trăm là doanh nghiệp của bạn sẽ tiếp tục hoạt động sang năm (hoặc ngắn hơn, ngay ngày mai). Bạn không thể chắc chắn 100% được, bạn cứ nhìn vào vụ sóng thần tại Indonesia, vụ động đất ở Pakistan, bạn sẽ thấy rõ điều đó, hôm nay khách sạn đang hoạt động tốt, đông khách, tối nay có một trận động đất dữ dội, mặt đất nứt toác ra, khách sạn của bạn bị nuốt chửng, ngày mai bạn đến nơi làm thì thấy khách sạn đã biến mất…giả định của bạn đã không đúng, hoặc đúng hơn, bạn đã không đúng 100% với giả định đó, và đo đó không thể có trường hợp kế toán báo cáo chính xác và đầy đủ được mà chỉ có trung thực và hợp lý mà thôi. Nói thêm là VAS 21 nói là trung thực và hợp lý nhưng IAS 1 chỉ nói là fair presentation (trình bày một cách hợp lý mà thôi). Thế nghĩa là hợp lý đã bao gồm cả trung thực rồi (chẳng lẽ có trường hợp hợp lý một cách không trung thực- Dĩ nhiên là có “lời nói dối chân thật- true lies” của Arnie- nhưng trong kế toán thì làm gì có cái lý nào phi logic như vậy nhỉ).
Thứ ba là có nhất thiết cần tuân thủ các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy đinh có liên quan trong mọi trường hợp hay không, chỗ này có điểm khác biệt tương đối giữa VAS 21 và IAS 1.
(nguồn : kienthuctaichinh.com)
 
Ðề: Tổng hợp các bài viết về phân tích BCTC!

1. Ý nghĩa và các mục tiêu phân tích báo cáo tài chính

Phân tích báo cáo tài chính xét theo nghĩa khái quát đề cập tới nghệ thuật phân tích và giải thích các báo cáo tài chính. Để áp dụng hiệu quả nghệ thuật này đòi hỏi phải thiết lập một quy trình có hệ thống và logic, có thể sử dụng làm cơ sở cho việc ra quyết định. Trong phân tích cuối cùng, việc ra quyết định là mục đích chủ yếu của phân tích báo cáo tài chính. Dù cho đó là nhà đầu tư cổ phần vốn có tiềm năng, một nhà cho vay tiềm tàng, hay một nhà phân tích tham mưu của một công ty đang được phân tích, thì mục tiêu cuối cùng đều như nhau - đó là cung cấp cơ sở cho việc ra quyết định hợp lý. Các quyết định xem nên mua hay bán cổ phần, nên cho vay hay từ chối hoặc nên lựa chọn giữa cách tiếp tục kiểu trước đây hay là chuyển sang một quy trình mới, tất cả sẽ phần lớn sẽ phụ thuộc vào các kết quả phân tích tài chính có chất lượng. Loại hình quyết định đang được xem xét sẽ là yếu tố quan trọng của phạm vi phân tích, nhưng mục tiêu ra quyết định là không thay đổi. Chẳng hạn, cả những người mua bán cổ phần lẫn nhà cho vay ngân hàng đều phân tích các báo cáo tài chính và coi đó như là một công việc hỗ trợ cho việc ra quyết định, tuy nhiên phạm vị chú ý chính trong những phân tích của họ sẽ khác nhau. Nhà cho vay ngân hàng có thể quan tâm nhiều hơn tới khả năng cơ động chuyển sang tiền mặt trong thời kỳ ngắn hạn và giá trị lý giải của các tài sản có tính cơ động. Còn các nhà đầu tư cổ phần tiềm năng quan tâm hơn đến khả năng sinh lợi lâu dài và cơ cấu vốn. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, sự định hướng vào việc ra quyết định của công tác phân tích là đặc trưng chung.

Có hai mục đích hoặc mục tiêu trung gian trong phân tích báo cáo tài chính, đồng thời là mối quan tâm cho mọi nhà phân tích thông minh.

- Thứ nhất, mục tiêu ban đầu của việc phân tích báo cáo tài chính là nhằm để "hiểu được các con số" hoặc để "nắm chắc các con số", tức là sử dụng các công cụ phân tích tài chính như là một phương tiện hỗ trợ để hiểu rõ các số liệu tài chính trong báo cáo. Như vậy, người ta có thể đưa ra nhiều biện pháp phân tích khác nhau nhằm để miêu tả những quan hệ có nhiều ý nghĩa và chắt lọc thông tin từ các dữ liệu ban đầu.

- Thứ hai, do sự định hướng của công tác phân tích tài chính nhằm vào việc ra quyết định, một mục tiêu quan trọng khác là nhằm đưa ra một cơ sở hợp lý cho việc dự đoán tương lai. Trên thực tế, tất cả các công việc ra quyết định, phân tích tài chính hay tất cả những việc tương tự đều nhằm hướng vào tương lai. Do đó, người ta sử dụng các công cụ và kĩ thuật phân tích báo cáo tài chính nhằm cố gắng đưa ra đánh giá có căn cứ về tình hình tài chính tương lai của công ty, dựa trên phân tích tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, và đưa ra ước tính tốt nhất về khả năng của những sự cố kinh tế trong tương lai.

Trong nhiều trường hợp người ta nhận thấy rằng, phần lớn công việc phân tích báo cáo tài chính bao gồm việc xem xét cẩn thận, tỷ mỉ các báo cáo tài chính, thậm chí cả việc đọc kỹ lưỡng hơn đối với các chú thích và việc sắp xếp lại hoặc trình bày lại các số liệu sẵn có để đáp ứng nhu cầu của người phân tích. Khi đó, người ta có thể hỏi tại sao không thể chấp nhận các báo cáo tài chính đã chuẩn bị theo các mệnh giá, nói cách khác là tại sao lại “can thiệp vào các con số” ngay từ đầu? Câu trả lời hiển nhiên là, hầu như luôn luôn phải có can thiệp đôi chút để “hiểu rõ các con số”. Nhìn chung, đòi hỏi phải có sự phân tích nào đó với tư cách là bước đầu tiên đối với báo cáo tài chính đã được chuẩn bị nhằm chắt lọc các thông tin từ các số liệu trình bày trong báo cáo. Thứ hai, hầu hết các quyết định được thực hiện trên cơ sở phân tích báo cáo tài chính là khá quan trọng, cho nên việc chấp nhận các số liệu tài chính đã trình bày lúc đầu thường là một cách làm không tốt. Về mặt tài chính, hầu hết các quyết định đều đòi hỏi phải sử dụng một kết cấu logic, trong đó, các cảm nghĩ và các kết luận có thể được phát triển một cách có hệ thống và có ý kiến đánh giá hợp lý.

2. Công cụ phân tích Báo cáo tài chính

Hiện này, công cụ thường được sử dụng trong phân tích báo cáo tài chính là Phân tích tỷ lệ. Việc sử dụng các tỷ lệ cho phép người phân tích đưa ra một tập hợp các con số thống kê để vạch rõ những đặc điểm chủ yếu về tài chính của một số tổ chức đang được xem xét. Trong phần lớn các trường hợp, các tỷ lệ được sử dụng theo hai phương pháp chính. Thứ nhất, các tỷ lệ cho tổ chức đang xét sẽ được so sánh với các tiêu chuẩn của ngành. Có thể có những tiêu chuẩn của ngành này thông qua các dịch vụ thương mại như của tổ chức Dun and Bradstreet hoặc Robert Morris Associates, hoặc thông qua các hiệp hội thương mại trong trường hợp không có sẵn, các tiêu chuẩn ngành cho ngành đã biết hoặc do tổ chức mà ta đang xem xét không thể dễ dàng gộp lại được thành một loại hình ngành “tiêu chuẩn”. Các nhà phân tích có thể đưa ra một tiêu chuẩn riêng của họ bằng cách tính toán các tỷ lệ trung bình cho các công ty chủ đạo trong cùng một ngành. Cho dù nguồn gốc của các tỷ lệ là như thế nào cũng đều cần phải thận trọng trong việc so sánh công ty đang phân tích với các tiêu chuẩn được đưa ra cho các công ty trong cùng một ngành và có quy mô tài sản xấp xỉ.

Công dụng lớn thứ hai của các tỷ lệ là để so sánh xu thế theo thời gian đối với mỗi công ty riêng lẻ. Ví dụ, xu thế số dư lợi nhuận sau thuế đối với công ty có thể được đối chiếu qua một thời kỳ 5 năm hoặc 10 năm. Rất hữu ích nếu ta quan sát các tỷ lệ chính thông qua một vài kỳ sa sút kinh tế trước đây để xác định xem công ty đã vững vàng đến mức nào về mặt tài chính trong các thời kỳ sa cơ lỡ vận về kinh tế.

Đối với cả hai phạm trù sử dụng chính, người ta thường nhận thấy rằng “trăm nghe không bằng mắt thấy” và việc mô tả các kết quả phân tích dưới dạng đồ thị thường rất hữu ích và xúc tích. Nếu ta chọn phương pháp này để trình bày các kết quả thì tốt nhất là nên trình bày cả tiêu chuẩn ngành và xu thế trên cùng một biểu đồ. Các tỷ lệ tài chính then chốt thường được nhóm lại thành bốn loại chính, tuỳ theo khía cạnh cụ thể về tình hình tài chính của công ty mà các tỷ lệ này muốn làm rõ. Bốn loại chính, xét theo thứ tự mà chúng ta sẽ được xem xét ở dưới đây là:

a. Khả năng sinh lợi: Các tỷ lệ “ở hàng dưới cùng” được thiết kế để đo lường năng lực có lãi và mức sinh lợi của công ty.

b. Tính thanh khoản: Các tỷ lệ được thiết kế ra để đo lường khả năng của một công ty trong việc đáp ứng nghĩa vụ thanh toán nợ ngần ngắn hạn khi đến hạn.

c. Hiệu quả hoạt động: Đo lường tính hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực của công ty để kiếm được lợi nhuận.

d. Cơ cấu vốn (đòn bẩy nợ / vốn): Đo lường phạm vi theo đó việc trang trải tài chính cho các khoản vay nợ được công ty thực hiện bằng cách vay nợ hay bán thêm cổ phần. Có hàng loạt tỷ lệ trong mỗi loại nêu trên. Ta sẽ xem xét tuần tự từng loại và sẽ khảo sát các tỷ lệ chính trong mỗi nhóm.
 
Ðề: Tổng hợp các bài viết về phân tích BCTC!

Phân tích khái quát BCTC.
 
Sửa lần cuối:
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.

CẨM NANG KẾ TOÁN TRƯỞNG


Liên hệ: 090.6969.247

KÊNH YOUTUBE DKT

Cách làm file Excel quản lý lãi vay

Đăng ký kênh nhé cả nhà

SÁCH QUYẾT TOÁN THUẾ


Liên hệ: 090.6969.247

Top