Xác định giá trị nội tại cổ phiếu là một vấn đề rất phức tạp và phải mất nhiều thời gian nghiên cứu để có thể hiểu đúng và áp dụng một cách hiệu quả trong đầu tư. Trong bài viết này tác giả muốn giới thiệu những vấn đề căn bản của phương pháp xác định giá trị nội tại (Intinsic value) cổ phiếu theo chiết khấu dòng cổ tức (Dividend Discount Model-DDM), một phương pháp phổ biến trên thế giới trong việc xác định giá trị cổ phiếu. Trước tiên chúng ta sẽ thảo luận một số khái niệm cơ bản liên quan.
1. Lãi và rủi ro
Để tối đa hóa giá cổ phiếu, các giám đốc tài chính cũng như nhà đầu tư cần hiểu và xác định được hai yếu tố cơ bản: lãi (return) và rủi ro (risk).
Lãi của một khoản đầu tư trong một khoảng thời gian được tính bởi tổng số tiền được phân phối trong kỳ cộng với các khoản tăng giá trị trong kỳ, tất cả chia cho giá trị đầu tư đầu kỳ. Ví dụ: Công ty Hoana muốn xác định lãi của cổ phiếu REE mà Công ty mua 1 năm trước với giá 38.000 đồng và giá hiện tại là 82.000 đồng. Trong kỳ, Công ty nhận được cổ tức (sau thuế) là 1.400 đồng. Tỷ lệ lãi đầu tư cổ phiếu REE trong năm là bao nhiêu?
K = (1.400 đ + (82.000 - 38.000))/38.000 = 119%
Rủi ro là khả năng sảy ra việc lỗ tài chính hay chính thống hơn là sự biến động của các khoản lãi lỗ gắn liền với một tài sản. Ví dụ, một trái phiếu chính phủ 1 triệu đồng, đảm bảo cho người sở hữu nó một khoản lãi 80.000 đồng sau 1 năm mà coi như không có rủi ro, vì không có sự biến động của khoản lãi. Một khoản đầu tư cổ phiếu thường 1 triệu đồng, trong cùng khoảng thời gian như trên có thể kiếm được khoản lãi biến động từ 0 đến 200.000 đồng, nó rất rủi ro, vì sự biến động lớn của lãi của cổ phiếu. Một khoản lãi từ tài sản gần chắc chắn hơn, ít có sự biến động hơn và do vậy rủi ro ít hơn.
Đo lường rủi ro: Độ lệch chuẩn (Standard deviation) là chỉ số thống kê phổ biến để chỉ mức rủi ro của một tài sản; nó đo lường sự phân tán xung quanh giá trị mong muốn (expected value), giá trị lãi của tài sản mà nó có khả năng xảy ra lớn nhất.
2. Phương pháp định giá tài sản vốn theo lãi và rủi ro/The Capital Asset Pricing Model (CAPM)
Cơ bản của thuyết này là mối liên hệ giữa rủi ro và lãi cho tất cả các tài sản. Phương trình cơ bản của CAPM là:
Ks = Rf + [bs x (Km-Rf)]
Trong đó:
+ Ks= Tỷ lệ lãi yêu cầu trên tài sản s;
+ Rf = Tỷ lệ lãi không có rủi ro (risk- free of interest): thường được lấy bằng tỷ lệ lãi trái phiếu chính phủ ngắn hạn 3 tháng;
+ Rf = K* + IP = Tỷ lệ lãi suất thực + Tỷ lệ lạm phát ước tính;
Nếu tỷ lệ lạm phát ước tính năm 2006 của đồng Việt Nam là 6%, tỷ lệ lãi suất thực là 2% thì tỷ lệ lãi không có rủi ro là Rf = 2% + 6% = 8%.
+ bs = Hệ số rủi ro beta: Thước đo liên quan đến rủi ro mà không thể triệt tiêu từ việc đa dạng hóa đầu tư. Một chỉ số chỉ mức độ thay đổi lãi của một tài sản trước sự thay đổi lãi thị trường. Nếu lãi của một cổ phiếu bằng một nửa so với lãi thị trường, thì bs = 0,5. Nó ước tính sẽ thay đổi bằng 0,5 % của 1% thay đổi trong lãi của danh mục thị trường. Nếu một cổ phiếu có 2 lần thay đổi so với thị trường (b =2) sẽ mong đợi 2% thay đổi lãi của nó cho 1% thay đổi lãi của danh mục thị trường. Hệ số rủi ro beta của quá khứ cho các cổ phiếu có thể tính được bằng khoa học thống kê. Ở các nước thường có các tài liệu công bố công khai về hệ số bs này. Lưu ý rằng, hệ số rủi ro quá khứ có thể không đúng cho tương lai.
+ Km = Lãi thị trường (Market return) là lãi trên toàn bộ các chứng khoán được lưu hành;
+ Km-Rf = Tỷ lệ thưởng rủi ro (Risk Premium) là phần thưởng mà nhà đầu tư phải nhận được cho việc chấp nhận rủi ro bình quân liên quan đến các danh mục tài sản đầu tư của thị trường.
Theo Stocks,Bonds, Bills & Inflation, 2001 year book (Chicago: Ibboston Associates Inc., 2001, lãi, độ lệch chuẩn và tỷ lệ thưởng rủi ro của các khoản đầu tư chứng khoán từ 1926-2000 trên TTCK NewYork như sau: (Xem bảng 1)
Ví dụ: Công ty X muốn xác định tỷ lệ lãi yêu cầu trên tài sản, cổ phiếu HAS mà chúng có hệ số beta, chỉ số rủi ro tài sản là bh =1,2. Tỷ lệ lãi không rủi ro là Rf = 8% (= 2%+6%); Lãi của các cổ phiếu trên thị trường là Km = 15%. Thay vào công thức trên ta có:
Kh = Rf + [bh x (Km-Rf)] = 8% + [1,2 x (15%-8%)] = 8% +8,4% =16,4%
Những thay đổi trong việc không muốn rủi ro (Risk aversion): nhà đầu tư không muốn rủi ro (kinh tế, chính trị, xã hội), họ yêu cầu tăng lãi khi các rủi ro tăng lên.
Những thay đổi trong dự đoán lạm phát: giả sử hiện nay do giá xăng dầu tăng mạnh, lạm phát tăng thêm 2% so với dự đoán ban đầu là 6%. Kết quả tất yếu là tất cả các tỷ lệ lãi cũng tăng tương ứng 2%. Trong trường hợp đó, Rf1 = 10% (tăng từ 8% lên 10%), Km1 = 17% (tăng từ 15% lên 17%) Thay vào công thức trên ta có:
Kh1 = 10% + [1,2 x (17%-10%)] = 10% + 8,4% = 18,4%
So sánh Kh = 16,4% và Kh1 = 18,4%, ta thấy sự thay đổi 2% trong lãi yêu cầu của tài sản Kh đúng bằng thay đổi trong tỷ lệ lạm phát 2%.
1. Lãi và rủi ro
Để tối đa hóa giá cổ phiếu, các giám đốc tài chính cũng như nhà đầu tư cần hiểu và xác định được hai yếu tố cơ bản: lãi (return) và rủi ro (risk).
Lãi của một khoản đầu tư trong một khoảng thời gian được tính bởi tổng số tiền được phân phối trong kỳ cộng với các khoản tăng giá trị trong kỳ, tất cả chia cho giá trị đầu tư đầu kỳ. Ví dụ: Công ty Hoana muốn xác định lãi của cổ phiếu REE mà Công ty mua 1 năm trước với giá 38.000 đồng và giá hiện tại là 82.000 đồng. Trong kỳ, Công ty nhận được cổ tức (sau thuế) là 1.400 đồng. Tỷ lệ lãi đầu tư cổ phiếu REE trong năm là bao nhiêu?
K = (1.400 đ + (82.000 - 38.000))/38.000 = 119%
Rủi ro là khả năng sảy ra việc lỗ tài chính hay chính thống hơn là sự biến động của các khoản lãi lỗ gắn liền với một tài sản. Ví dụ, một trái phiếu chính phủ 1 triệu đồng, đảm bảo cho người sở hữu nó một khoản lãi 80.000 đồng sau 1 năm mà coi như không có rủi ro, vì không có sự biến động của khoản lãi. Một khoản đầu tư cổ phiếu thường 1 triệu đồng, trong cùng khoảng thời gian như trên có thể kiếm được khoản lãi biến động từ 0 đến 200.000 đồng, nó rất rủi ro, vì sự biến động lớn của lãi của cổ phiếu. Một khoản lãi từ tài sản gần chắc chắn hơn, ít có sự biến động hơn và do vậy rủi ro ít hơn.
Đo lường rủi ro: Độ lệch chuẩn (Standard deviation) là chỉ số thống kê phổ biến để chỉ mức rủi ro của một tài sản; nó đo lường sự phân tán xung quanh giá trị mong muốn (expected value), giá trị lãi của tài sản mà nó có khả năng xảy ra lớn nhất.
2. Phương pháp định giá tài sản vốn theo lãi và rủi ro/The Capital Asset Pricing Model (CAPM)
Cơ bản của thuyết này là mối liên hệ giữa rủi ro và lãi cho tất cả các tài sản. Phương trình cơ bản của CAPM là:
Ks = Rf + [bs x (Km-Rf)]
Trong đó:
+ Ks= Tỷ lệ lãi yêu cầu trên tài sản s;
+ Rf = Tỷ lệ lãi không có rủi ro (risk- free of interest): thường được lấy bằng tỷ lệ lãi trái phiếu chính phủ ngắn hạn 3 tháng;
+ Rf = K* + IP = Tỷ lệ lãi suất thực + Tỷ lệ lạm phát ước tính;
Nếu tỷ lệ lạm phát ước tính năm 2006 của đồng Việt Nam là 6%, tỷ lệ lãi suất thực là 2% thì tỷ lệ lãi không có rủi ro là Rf = 2% + 6% = 8%.
+ bs = Hệ số rủi ro beta: Thước đo liên quan đến rủi ro mà không thể triệt tiêu từ việc đa dạng hóa đầu tư. Một chỉ số chỉ mức độ thay đổi lãi của một tài sản trước sự thay đổi lãi thị trường. Nếu lãi của một cổ phiếu bằng một nửa so với lãi thị trường, thì bs = 0,5. Nó ước tính sẽ thay đổi bằng 0,5 % của 1% thay đổi trong lãi của danh mục thị trường. Nếu một cổ phiếu có 2 lần thay đổi so với thị trường (b =2) sẽ mong đợi 2% thay đổi lãi của nó cho 1% thay đổi lãi của danh mục thị trường. Hệ số rủi ro beta của quá khứ cho các cổ phiếu có thể tính được bằng khoa học thống kê. Ở các nước thường có các tài liệu công bố công khai về hệ số bs này. Lưu ý rằng, hệ số rủi ro quá khứ có thể không đúng cho tương lai.
+ Km = Lãi thị trường (Market return) là lãi trên toàn bộ các chứng khoán được lưu hành;
+ Km-Rf = Tỷ lệ thưởng rủi ro (Risk Premium) là phần thưởng mà nhà đầu tư phải nhận được cho việc chấp nhận rủi ro bình quân liên quan đến các danh mục tài sản đầu tư của thị trường.
Theo Stocks,Bonds, Bills & Inflation, 2001 year book (Chicago: Ibboston Associates Inc., 2001, lãi, độ lệch chuẩn và tỷ lệ thưởng rủi ro của các khoản đầu tư chứng khoán từ 1926-2000 trên TTCK NewYork như sau: (Xem bảng 1)
Ví dụ: Công ty X muốn xác định tỷ lệ lãi yêu cầu trên tài sản, cổ phiếu HAS mà chúng có hệ số beta, chỉ số rủi ro tài sản là bh =1,2. Tỷ lệ lãi không rủi ro là Rf = 8% (= 2%+6%); Lãi của các cổ phiếu trên thị trường là Km = 15%. Thay vào công thức trên ta có:
Kh = Rf + [bh x (Km-Rf)] = 8% + [1,2 x (15%-8%)] = 8% +8,4% =16,4%
Những thay đổi trong việc không muốn rủi ro (Risk aversion): nhà đầu tư không muốn rủi ro (kinh tế, chính trị, xã hội), họ yêu cầu tăng lãi khi các rủi ro tăng lên.
Những thay đổi trong dự đoán lạm phát: giả sử hiện nay do giá xăng dầu tăng mạnh, lạm phát tăng thêm 2% so với dự đoán ban đầu là 6%. Kết quả tất yếu là tất cả các tỷ lệ lãi cũng tăng tương ứng 2%. Trong trường hợp đó, Rf1 = 10% (tăng từ 8% lên 10%), Km1 = 17% (tăng từ 15% lên 17%) Thay vào công thức trên ta có:
Kh1 = 10% + [1,2 x (17%-10%)] = 10% + 8,4% = 18,4%
So sánh Kh = 16,4% và Kh1 = 18,4%, ta thấy sự thay đổi 2% trong lãi yêu cầu của tài sản Kh đúng bằng thay đổi trong tỷ lệ lạm phát 2%.