Phân tích BCTC CTCP Nông nghiệp quốc tế Hoàng Anh Gia Lai (HNG) Quý 4/2021

Hồ Xuân Quang

Member
Hội viên mới
Khi một giám đốc tài chính đánh giá tình hình tài chính của một công ty, điều trước hết họ sẽ xem xét liệu rằng doanh nghiệp đó có đủ khả năng trả nợ cho các bên cho vay hay không, điều này được đánh giá thông qua chỉ số dòng tiền ngắn hạn và chỉ số dòng tiền dài hạn của doanh nghiệp.
Với chỉ số dòng tiền ngắn hạn, ở quý 4/2021 doanh nghiệp đạt 0,58 hầu như không có sự biến động so với cùng kỳ năm trước đó (0,57). Điều này có nghĩa rằng 1 đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được trả bởi 0,58 đồng tài sản ngắn hạn. Chỉ số dòng tiền ngắn hạn như thế này khi so với mặt bằng chung của ngành đang đạt một con số cực thấp. Trong các kỳ vừa qua, doanh nghiệp luôn để mức dòng tiền ngắn hạn ở một mức độ thấp như vầy hầu như đều dưới 0,6, chỉ có 1 kỳ đạt xấp xỉ một. Với các con số như thế này, hiện tại doanh nghiệp đang sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư cho các kế hoạch dài hạn của mình. Hậu quả của việc làm này chính là khi các khoản nợ ngắn đáo hạn, thậm chí doanh nghiệp không thể thanh toán được các khoản nợ này, nó làm cho DN sẽ đối mặt với các khoản nợ xấu, việc chậm trễ nợ, cũng như các chỉ số tín dụng của DN thấp đi rất nhiều khi DN gặp rất nhiều vấn đề trong việc thanh toán nợ nần. Nếu vẫn tiếp tục tình trạng như thế này, doanh nghiệp thực sự sẽ lâm nguy, khi họ hầu như đối mặt với tình trạng kiệt quệ tài chính trầm trọng, không còn đủ vốn ngắn hạn để tiếp tục các hoạt động kinh doanh.
Khi xem xét với dòng tiền dài hạn, chúng ta thấy được rằng chỉ số này khả quan và tích cực hơn rất nhiều khi ở trong ngắn hạn. Trong quý gần nhất, quý 4/2021, doanh nghiệp đạt 57,20% giảm 11,83% so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này có nghĩa rằng 1 đồng tài sản được tài trợ bởi 57,20% là nợ. Khi so sánh với mặt bằng chung của ngành, chỉ số này hiện tại đang đạt mức trung bình so với các đối thủ. Với chỉ số này, doanh nghiệp đang đảm bảo rằng trong dài hạn, họ sẽ không gặp quá nhiều khó khăn về vấn đề trả nợ cho các bên vay và duy trì hoạt động dài lâu. Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhìn lại rằng, với chính sách sử dụng lấy ngắn để nuôi dài như vậy, chưa cần tới thời điểm mà DN trả nợ dài hạn, trong thời gian sắp tới đây, doanh nghiệp cũng phải gặp rất nhiều vấn đề cần phải xử lý ngay, bởi vì hiện tại, học không có đủ tiền để chi trả các khoản nợ ngắn. Dẫn đến nguy cơ là họ sẽ bắt buộc phải kêu gọi thêm vốn hoặc bán bớt tài sản của mình đi chỉ để trả nợ. Vì vậy dù dòng tiền dài hạn đang ở mức khá, như cá nhân mình đánh giá đây vẫn là một chỉ số không ổn chút nào. Và những chiến lược tài chính của DN cũng thật sự đang gặp vấn đề.
Tóm lại, DN cần có các biện pháp ngay lập tức để tái cấu trúc vốn trong ngắn hạn, bằng mọi giá phải để chỉ số này, dù không thể đạt mức cao, nhưng ít nhất phải đủ để trả nợ cho bên vay khi đáo hạn, nếu không chắc chắn DN sẽ rơi vào tình trạng cực kỳ đáng báo động về tài chính, dẫn tới các hệ lụy không đáng có.
1649696895542.png

Tiếp theo, một nhà quản trị tài chính sẽ về đánh giá về chất lượng tăng trưởng doanh thu của doanh nghiệp thông qua mức độ tăng trưởng doanh thu và các tỷ suất lợi nhuận gộp đang biến động như thế nào.
Một doanh nghiệp được coi là thu hút các nhà đầu tư chỉ khi mức độ tăng trưởng doanh thu của DN đó đạt mức 10%/năm. Điều này sẽ phản ánh được rằng trong thị trường đầy biến động và liên tục tăng trưởng. Họ vẫn tiếp tục phát triển và lao lên thị trường, mức tăng trưởng này nếu duy trì qua từng kỳ sẽ giúp cho các NĐT thấy được rằng thị trường của họ ngày càng được mở rộng, các sản phẩm ngày càng được tiêu thụ nhiều hơn cũng như càng ngày càng có nhiều khách hàng quan tâm đến sản phẩm này, với mức phát triển đó, NĐT sẽ thấy được DN sẽ có 1 chỗ đứng vững chắc trong thị trường và luôn tăng trưởng bền vững qua thời gian. Tuy nhiên, với DN HNG, chúng ta thấy được rằng không những họ không đáp ứng được mức kỳ vọng của các NĐT. Trái lại, họ thậm chí còn liên tục bị đáng kể giảm mức doanh thu của họ qua từng kỳ, mức doanh thu giảm đáng kể qua các kỳ ít nhất 13%. Và trong kỳ gần nhất, DN giảm 20% so với kỳ trước đó, một mức giảm cực kỳ khổng lồ. Điều này phản ánh rằng các chính sách kinh doanh của DN đang gặp rất nhiều vấn đề, liên tục qua từng kỳ. Việc giảm doanh thu như vậy đồng nghĩa với việc các sản phẩm của họ ngày càng được ít tiêu thụ hơn, KH không có nhu cầu về sản phẩm của công ty, và trong các kỳ vừa qua, DN thật sự đang tụt lại rất nhiều so với các đối thủ khác. Chắc chắn họ phải có sự đổi mới trong các hoạt động KD, nếu không tình hình này diễn ra liên tục, sẽ trở nên cực kỳ tồi tệ đối với DN.
Cùng với sự giảm liên tục trong doanh thu, chúng ta sẽ xem xét tỷ suất lợi nhuận gộp xảy ra như thế nào. Đây là tỷ suất được coi là đánh giá mức độ hiệu quả của các hoạt động kinh doanh chính, cốt lõi của doanh nghiệp ra sao. Và cùng với sự giảm liên tục từ doanh thu, trong kỳ gần nhất, chỉ số này của doanh nghiệp đang âm, với chỉ số là -35.16%, một chỉ số lỗ cực kỳ lớn của DN hiện nay, và chỉ số này giảm hơn 708% so với kỳ trước đó, một con số cực kỳ khổng lồ. Với mức giảm liên tục như vậy, chúng ta thấy được hiện tại doanh nghiệp đang gặp vấn đề từ chính họ, việc kiểm soát chi phí liên quan trực tiếp đến giá thành sản phẩm ngay tại thời điểm này của DN thực sự là quá kém, khi họ để để mức giá vốn cao hơn số tiền mà họ nhận được quá nhiều, gây ra lượng thiệt hại khá lớn cho DN. Kèm theo 1 lý do khách quan là với tình hình dịch bệnh diễn ra cực phức tạp trong năm vừa qua, về lĩnh vực nông nghiệp, việc vận chuyển các thức ăn, kinh doanh và duy trì giá ở mức thấp cũng khó để mà thực hiện được, tuy nhiên đây chỉ là 1 lí do rất nhỏ. Nhìn chung thì lỗi phần lớn sẽ thuộc về DN, khi những chính sách kiểm soát giá của họ cũng đang gặp rất nhiều vấn đề, giá thành phát sinh rất cao nhưng doanh thu lại vẫn giữ ở mức rất thấp, và DN cần phải tìm ra biện pháp khắc phục, vì khi hoạt động KD cốt lõi không mang lại giá trị, không thể tìm ra được lí do mà các NĐT đánh giá DN sẽ có khả năng phát triển trong tương lai.
Và 2 tỷ suất cuối cùng được xem xét khi đánh giá chất lượng doanh thu chính là tỷ suất lợi nhuận từ HĐKD và tỷ suất lợi nhuận sau thuế. Cặp tỷ suất này dùng để đánh giá được rằng việc DN kiếm được lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh cũng như đầu tư của mình ra sao và xem được mức lợi nhuận chủ yếu mà DN tạo ra dựa trên hoạt động nào. Và chúng ta thấy được ở 2 mức tỷ suất LN này, chúng có sự tỷ lệ thuận với nhau, tuy nhiên tỷ suất lợi nhuận sau thuế luôn thấp hơn tỷ suất LN từ HĐKD. Điều này phản ánh được hầu hết các nguồn lợi nhuận mà DN mang về đều từ HĐKD của DN mà ra. Tuy nhiên chúng ta thấy được rằng có những kỳ mà 2 tỷ suất này chênh lệch nhau rất lớn, có khả năng 1 phần là vì các chi phí khác của DN ngoài HĐKD tăng lên, làm cho lợi nhuận sau thuế giảm xuống đáng kể.
Khi nhìn cụ thể hơn vào tỷ suất lợi nhuận từ HĐKD, chúng ta có thể thấy sự khác biệt rõ rệt từ kỳ gần nhất so với kỳ trước đó, với kỳ gần nhất của DN, tỷ suất lợi nhuận âm 95.29%, so với kỳ trước đó là 7,32%. Thật sự DN có sự đảo chiều rất lớn chỉ trong 1 kỳ, họ giảm hơn 1400% chỉ so với kỳ trước đó, phần lớn là tại vì chi phí giá vốn của DN tăng quá cao, thêm vào đó các chi phí vận hành, quản lý và bán hàng của DN trong năm qua cũng phát sinh tăng rất cao. Từ những lý do trên, chúng ta sẽ thấy tại sao mà DN lại có một mức tỷ suất âm cao như vậy. Và nó cũng phản ánh với tình hình hiện tại, DN cần phải thay đổi ngay lập tức, nếu chỉ cần âm quá nhiều như thế thêm 1 kỳ nữa, DN sẽ gặp rủi ro rất cao về thị trường và sản phẩm của mình.
1649699669027.png

Cuối cùng, một CFO sẽ đánh giá DN mình có thu hút được các quỹ đầu tư hay không thông qua khả năng sinh lời của DN đó. Mục tiêu của mọi DN khi thành lập là mang lại lợi nhuận cho chủ sở hữu của họ. Và đó cũng chính là điều mà các NĐT mong muốn, họ sẽ đánh giá chỉ số này cũng DN thông qua chỉ số ROE và chỉ số ROA của DN.
Với ROE, trong kỳ vừa qua, với tình hình kinh doanh có phần đi xuống nghiêm trọng như trên, không thể tránh khỏi việc ROE sụt giảm nghiêm trọng, đạt -15,16%. Nghĩa là với 1 đồng mà VCSH góp vào thì họ sẽ lỗ 15,16%. Đây chắc chắn là chỉ số không thể thu hút bất kỳ quỹ đầu tư nào tham gia góp vốn, và họ cũng giảm hơn 2000% về chỉ số này, dù cho thời điểm ROE đạt cao nhất, con số mà họ đủ để thu hút NĐT là rất rất xa.
Cùng với sự giảm sút của ROE thì ROA cũng là một nguyên nhân dẫn đến điều đó. Tỷ suất Lợi nhuận/ VCSH giảm bởi vì trong kỳ vừa qua, hiệu suất sử dụng tài sản của DN cũng gặp vấn đề, khi đạt mức âm 5,8%, cho thấy việc sử dụng tài sản ảnh hưởng rất lớn đối với lợi nhuận của DN. Nếu DN muốn tăng chỉ số ROE, thì cần phải tăng tối ưu hóa được mức tài sản của DN, và cũng là cách của hầu hết doanh nghiệp sử dụng.
Tóm lại, với tình hình hiện nay của doanh nghiệp vẫn đang gặp rất nhiều vấn đề, về dòng tiền, hoạt động kinh doanh cũng như lợi nhuận, tỷ suất sinh lời đều ở mức cực thấp, đặc biệt trong kỳ vừa qua, DN đã thiệt hại khá nhiều, lớn nhất từ trước cho đến nay. Nếu muốn tiếp tục phát triển mở rộng hơn nữa, DN buộc phải thay đổi chính sách KD và tài chính của mình, và quá trình này cần phải thực hiện lâu dài. Với các NĐT, chỉ số cho thấy, đây không phải là DN họ nên bỏ vốn và đem lại mức tỷ suất kỳ vọng lâu dài cho họ.
Bài phân tích chỉ là quan điểm cá nhân. Không phải khuyến nghị đầu tư. Chỉ mang tính chất tham khảo)
Nếu các anh chị muốn biết thêm về cách phân tích báo cáo tài chính làm sao cho thực tế và hiệu quả thì khóa học này là dành cho anh chị:
http://clevercfo.com/khoa-hoc-phan-tich-bao-cao-tai-chinh-online
Xem thêm:
Phân tích BCTC CTCP Hoàng Anh Gia Lai (HAG) Quý 4/2021:
 

CẨM NANG KẾ TOÁN TRƯỞNG


Liên hệ: 090.6969.247

KÊNH YOUTUBE DKT

Cách làm file Excel quản lý lãi vay

Đăng ký kênh nhé cả nhà

SÁCH QUYẾT TOÁN THUẾ


Liên hệ: 090.6969.247

Top