Đoạn mà bạn trích dẫn trong thông tư ở trên nằm trong khoản 1, điều 6 của TT 228/2009 , nhưng khoản 1 này bao gồm một số các điều kiện để 1 khoản nợ phải thu được xem là khó đòi. Trong khi đó bạn chỉ lấy duy nhất có 1 điều kiện rồi suy diễn ra đó là nợ khó đòi.
Bạn đọc luật mà chỉ đọc cái có thể biện minh cho việc làm của mình (tâm thức chủ quan) và bỏ qua những quy định tổng thể thì làm sao vận dụng cho đúng được.
Ngoài ra, Điều 3 của TT 228/2009 quy định về các Nguyên tắc chung trong trích lập các khoản dự phòng, những quy định ở đây cũng cũng bao gồm ý nghĩa là việc trích lập dự phòng không phải là công việc của kế toán mà là của Cty . Một đoạn trích điều này sẽ thể hiện rõ điều tôi nói ở trên :
4. Doanh nghiệp phải lập Hội đồng để thẩm định mức trích lập các khoản dự phòng và xử lý tổn thất thực tế của vật tư hàng hóa tồn kho, các khoản đầu tư tài chính, các khoản nợ không có khả năng thu hồi theo quy định tại Thông tư này và văn bản pháp luật khác có liên quan.Riêng việc trích lập dự phòng chi phí bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp thì thực hiện theo hợp đồng hoặc cam kết với khách hàng.
Thành phần Hội đồng gồm: Tổng giám đốc (hoặc Giám đốc), Kế toán trưởng, các trưởng phòng, ban có liên quan và một số chuyên gia (nếu cần). Tổng giám đốc (hoặc Giám đốc) doanh nghiệp quyết định thành lập Hội đồng.
Và như vậy, trong trường hợp này , "Bạn" - chính bản thân bạn đó - không thể thực hiện việc trích lập dự phòng (vì thiếu quá nhiều thủ tục) .