Khi một giám đốc tài chính đánh giá tình hình tài chính của một công ty, trước tiên họ cần phải chú ý đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp hiện tại đang diễn ra như thế nào, có đủ nguồn lực để xử lý các khoản nợ đó hay không, và điều này được thể hiện thông qua tỷ số dòng tiền của doanh nghiệp, bao gồm trong ngắn và dài hạn.
Với dòng tiền trong ngắn hạn, ở quý 4/2021, doanh nghiệp đạt mức 2,08 giảm gần 15% so với cùng quý năm trước. Điều này thể hiện là với 1 đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp, họ có 2,08 nguồn vốn lưu động để chi trả các khoản nợ này, và chỉ số của DN hiện nay đang đạt mức rất tốt so với mặt bằng chung của ngành. Điều này phản ánh được trong hiện tại, doanh nghiệp đang rất an toàn với các khoản nợ ngắn. Bởi vì sau khi trả hết các khoản nợ của các bên cho vay, doanh nghiệp vẫn còn 1 nguồn tiền ngắn hạn đủ lớn để tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh một cách trơn tru mà không gặp bất kỳ vấn đề khó khăn nào trong việc thiếu vốn để hoạt động sau khi trả hết nợ, đồng thời việc có dòng tiền tốt như thế cũng đảm bảo cho doanh nghiệp xử lý được các tình huống bất ngờ diễn ra, buộc DN phải chi ngay để giải quyết. Nhìn qua các kỳ, DN luôn đạt chỉ số dòng tiền ngắn hạn ở mức rất tốt, chứng tỏ DN luôn quan tâm tới dòng vốn lưu động của mình, không quá mạo hiểm với các khoản tiền của mình và luôn giữ cho DN ở trong trạng thái an toàn mà không có nguy cơ gặp rủi ro nào về tài chính.
Xét đến dòng tiền dài hạn, doanh nghiệp cũng đạt mức chỉ số vô cùng tích cực. Ở quý 4/2021, dòng tiền dài hạn của doanh nghiệp đạt 32,65%, tăng hơn 15% so với quý 4 năm trước. Tuy vậy, chỉ số dòng tiền dài hạn hiện tại của DN vẫn đang đạt ở mức rất tốt so với mặt bằng chung của lĩnh vực, 1 đồng tài sản của DN đang được tài trở bởi 32,65% là nợ, điều này cho chúng ta thấy công ty có khả năng đảm bảo các khoản nợ dài hạn bằng tài sản rất cao. Nghĩa là DN luôn đảm bảo nguồn tài chính trong dài hạn của mình ở mức cực tốt, và DN có đủ khả năng để trả nợ cho các bên cho vay mà không gặp bất kỳ cản trở rủi ro nào về tài chính. Thậm chí nếu muốn tăng trưởng thêm quy mô hoạt động của mình, DN vẫn có khả năng để vay thêm này nhưng vẫn đảm bảo được chỉ số này luôn đạt mức an toàn và không rơi vào tình trạng nguy hiểm, thêm vào đó có thể tăng thêm LN cho doanh nghiệp bởi vì khi sử dụng các khoản vay, DN còn có thêm lợi thế từ tấm chắn thuế, tăng mức LN của DN lên rất nhiều.
Tiếp theo, các CFO sẽ phân tích về chất lượng tăng trưởng doanh thu của DN diễn biến như thế nào qua từng kỳ. Họ sẽ đánh giá thông qua mức độ tăng trưởng của doanh nghiệp cũng như tỷ suất lợi nhuận liệu có đạt kỳ vọng ban đầu đã đưa ra hay không, cũng như có thể đáp ứng được các yêu cầu của các NĐT bên ngoài hay chưa.
Một doanh nghiệp thu hút được các nhà đầu tư chỉ khi mức độ tăng trưởng doanh thu của họ qua từng năm đạt 10%/năm. Đây là mức tăng trưởng cho thấy DN theo từng kỳ luôn phát triển, và lao đầu về phía trước, cùng với thị trường, chứ không dậm chân tại chỗ. Các sản phẩm cũng ngày càng được nhiều khách hàng tiêu thụ hơn, quy mô thị trường của càng mở rộng, và luôn có một vị thế vững chắc qua từng năm, sẵn sàng cạnh tranh với bất kỳ đối thủ trong khu vực.
Với doanh nghiệp Vĩnh Hoàn, trong kỳ gần nhất mức độ tăng trưởng doanh thu của DN tăng 9% so với kỳ trước đó, đây là mức tăng trưởng vẫn chưa đạt được kỳ vọng của NĐT dù chỉ thiếu một chút ít, thêm vào đó mức tăng này cũng không duy trì bền vững và liên tục qua các thời kỳ. Có những thời điểm DN tăng trưởng đạt kỳ vọng 10% so với trước kia, nhưng cũng có những thời điểm chỉ tăng trưởng khoảng 2%. Tuy DN không tăng trưởng quá mạnh, nhưng nó vẫn phát triển theo thời gian, ngày càng lớn mạnh hơn. Nhưng nếu muốn thu hút và tăng trưởng thêm nữa, DN cần phải có những chính sách KD nhằm thúc đẩy mức độ tăng trưởng luôn ở mức trên 10% và duy trì liên tục qua các kỳ, nó sẽ giúp cho DN tăng trưởng nhanh và mạnh thêm nữa trong tương lai. Như đã nói ở trước đó, DN có thể vay thêm nợ để cải thiện mức độ tăng trưởng doanh thu của mình, miễn là họ vẫn giữ được tài chính nằm ở mức an toàn là được.
Cùng với sự tăng trưởng của doanh thu, chúng ta sẽ xem xét mức tỷ suất LNG của doanh nghiệp đang có sự biến đổi ra sao. Trong kỳ gần nhất, doanh nghiệp đạt 19.35%, tăng hơn 36% so với cùng kỳ năm ngoái, đây là một mức tăng khá ấn tượng, cho thấy được DN đang kinh doanh rất hiệu quả với các hoạt động cốt lõi của họ. Mức tăng trưởng này có được nhờ vào sự tăng trưởng doanh thu qua từng kỳ, cộng thêm việc họ bắt đầu kiểm soát các chi phí liên quan trực tiếp đến giá thành sản phẩm một cách hiệu quả hơn, giảm thiểu bớt đi chi phí về GVHB, và qua đó góp phần có mức tăng trưởng tỷ suất LNG rất ấn tượng. Với 1 doanh nghiệp, tỷ suất LNG tăng trưởng đảm bảo cho việc họ đang phát triển một cách rất bền vững, và sự tăng trưởng đó là nhờ từ bên trong DN, với các chính sách tiết kiệm chi phí của họ.
Tiếp theo chúng ta sẽ cùng đánh giá được cặp tỷ suất LN từ HĐKD và tỷ suất LN sau thuế của DN biến động như thế nào trong kỳ vừa qua. Cặp tỷ suất này phản ánh được mức độ hiệu quả của các hoạt động kinh doanh và đầu tư của DN hiện ra sao, và phần trăm lợi nhuận sau thuế mà họ kiếm được là bao nhiêu, chủ yếu phụ thuộc vào điều gì mang lại. Với doanh nghiệp VHC, chúng ta thấy được rằng cặp tỷ suất này có mức phần trăm khá ngang nhau, không có quá nhiều sự chênh lệch, và luôn đồng biến với nhau. Điều này thể hiện cho chúng ta thấy được một điểm tích cực là, hầu hết lợi nhuận DN kiếm được chủ nhờ vào các hoạt động KD, và đầu tư của họ. Nếu họ càng có những kế hoạch mới, tăng trưởng lợi nhuận, giảm bớt chi phí, chủ sở hữu càng kiếm được nhiều tiền hơn, qua đó dẫn họ đến một mục tiêu là luôn tập trung với kế hoạch KD của mình, không bị ảnh hưởng tới những chính sách bên ngoài khác, không có lợi trong quá trình kinh dooanh, tăng hiệu suất DT của họ lên cao hơn nữa trong tương lai.
Khi xét cụ thể tỷ suất LNG từ HĐKD trong kỳ vừa qua, DN đạt 14,25%, tăng gần 24% so với cùng kỳ năm ngoái, điều này cho chúng ta thấy được DN vẫn đang hoạt động rất hiệu quả, các chính sách quản lý giá thành, liên quan đến quảng cáo, bán hàng vẫn duy trì ở mức ổn định, cùng với sự tăng trưởng doanh thu và chi phí giá vốn cải thiện tốt hơn so với năm trước đó, đây là mức tăng trưởng đủ để làm hài lòng doanh nghiệp.
Cuối cùng, các giám đốc tài chính sẽ chú ý về khả năng sinh lời của doanh nghiệp, một DN kinh doanh với mục đích chính là đem lại lợi nhuận cho các chủ đầu tư, và đó cũng là điều mà các quỹ đầu tư mong muốn khi góp vốn vào 1 DN, họ sẽ đánh giá điều này thông qua chỉ số ROE và ROA của DN.
Với ROE, trong kỳ gần nhất doanh nghiệp đạt 19,78%, có nghĩa là 1 đồng mà VCSH góp vô, họ sẽ kiếm được 19,78% lợi nhuận, chỉ số này tăng 45,58% so với cùng kỳ năm ngoái, chính là nhờ các chính sách kiểm soát chi phí cũng như tăng trưởng của DN, đã giúp cho DN có một sự đột phá về lợi nhuận họ kiếm được sau thuế. Với mới tỷ số này, DN có thể thu hút được các quỹ đầu tư vào góp vốn cho mình, tuy đây chỉ mới là kỳ đầu tiên DN đạt được kỳ vọng của NĐT, nhưng với các chính sách hiện có của DN, mình tin là DN sẽ duy trì được tỷ số này qua các kỳ tiếp theo, thậm chí còn tăng hơn nữa nếu họ có thể tăng trưởng doanh thu tốt hơn.
Về ROA, đây là điểm giúp cải thiện ROE rất nhiều, bởi vì để tăng trưởng một cách bền vững, tránh các rủi ro liên quan đến tài chính, buộc DN phải sử dụng hiệu quả được nguồn vốn từ chính bên trong DN, chính là ROA. Trong kỳ vừa qua, DN đã cải thiện hiệu suất sử dụng tài sản lên khá tốt từ 10,29% lên 13,85%, và nó chính là một phần quan trọng để góp phần đẩy ROE lên cao như trên. Và đó cũng chính là điều DN nên làm, luôn cải thiện và sử dụng tối ưu nguồn tài sản của mình hợp lý và hiệu quả nhất có thể.
Tóm lại, DN đang ở trong một tình hình vô cùng tốt và tích cực, với các chỉ số nằm ở mức an toàn, các chính sách về kiểm soát chi phí cũng vô cùng tốt, chỉ số sinh lời cũng nằm trong kỳ vọng của NĐT. Tuy nhiên để phát triển tăng hơn nữa và ngày càng đột phá, DN vẫn cần phải tăng trưởng và duy trì doanh thu của mình ở trạng thái đạt kỳ vọng đưa ra và giữ được các mức tỷ suất như trên, thậm chí là cao hơn. Nếu cải thiện được điều trên, chắc chắn giá cổ phiếu của DN sẽ còn có thể tăng mạnh trong tương lai.
(Bài phân tích chỉ là quan điểm cá nhân. Không phải khuyến nghị đầu tư. Chỉ mang tính chất tham khảo)
Nếu các anh chị muốn biết thêm về cách phân tích báo cáo tài chính làm sao cho thực tế và hiệu quả thì khóa học này là dành cho anh chị:
http://clevercfo.com/khoa-hoc-phan-tich-bao-cao-tai-chinh-online
Phân tích BCTC CTCP Tập đoàn Kido (KDC) Quý 4/2021:
Phân tích BCTC CTCP Tập đoàn PAN (PAN) Quý 4/2021:
Phân tích BCTC CTCP Tập đoàn Dabaco Việt Nam (DBC) Quý 4/2021:
Với dòng tiền trong ngắn hạn, ở quý 4/2021, doanh nghiệp đạt mức 2,08 giảm gần 15% so với cùng quý năm trước. Điều này thể hiện là với 1 đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp, họ có 2,08 nguồn vốn lưu động để chi trả các khoản nợ này, và chỉ số của DN hiện nay đang đạt mức rất tốt so với mặt bằng chung của ngành. Điều này phản ánh được trong hiện tại, doanh nghiệp đang rất an toàn với các khoản nợ ngắn. Bởi vì sau khi trả hết các khoản nợ của các bên cho vay, doanh nghiệp vẫn còn 1 nguồn tiền ngắn hạn đủ lớn để tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh một cách trơn tru mà không gặp bất kỳ vấn đề khó khăn nào trong việc thiếu vốn để hoạt động sau khi trả hết nợ, đồng thời việc có dòng tiền tốt như thế cũng đảm bảo cho doanh nghiệp xử lý được các tình huống bất ngờ diễn ra, buộc DN phải chi ngay để giải quyết. Nhìn qua các kỳ, DN luôn đạt chỉ số dòng tiền ngắn hạn ở mức rất tốt, chứng tỏ DN luôn quan tâm tới dòng vốn lưu động của mình, không quá mạo hiểm với các khoản tiền của mình và luôn giữ cho DN ở trong trạng thái an toàn mà không có nguy cơ gặp rủi ro nào về tài chính.
Xét đến dòng tiền dài hạn, doanh nghiệp cũng đạt mức chỉ số vô cùng tích cực. Ở quý 4/2021, dòng tiền dài hạn của doanh nghiệp đạt 32,65%, tăng hơn 15% so với quý 4 năm trước. Tuy vậy, chỉ số dòng tiền dài hạn hiện tại của DN vẫn đang đạt ở mức rất tốt so với mặt bằng chung của lĩnh vực, 1 đồng tài sản của DN đang được tài trở bởi 32,65% là nợ, điều này cho chúng ta thấy công ty có khả năng đảm bảo các khoản nợ dài hạn bằng tài sản rất cao. Nghĩa là DN luôn đảm bảo nguồn tài chính trong dài hạn của mình ở mức cực tốt, và DN có đủ khả năng để trả nợ cho các bên cho vay mà không gặp bất kỳ cản trở rủi ro nào về tài chính. Thậm chí nếu muốn tăng trưởng thêm quy mô hoạt động của mình, DN vẫn có khả năng để vay thêm này nhưng vẫn đảm bảo được chỉ số này luôn đạt mức an toàn và không rơi vào tình trạng nguy hiểm, thêm vào đó có thể tăng thêm LN cho doanh nghiệp bởi vì khi sử dụng các khoản vay, DN còn có thêm lợi thế từ tấm chắn thuế, tăng mức LN của DN lên rất nhiều.
Tiếp theo, các CFO sẽ phân tích về chất lượng tăng trưởng doanh thu của DN diễn biến như thế nào qua từng kỳ. Họ sẽ đánh giá thông qua mức độ tăng trưởng của doanh nghiệp cũng như tỷ suất lợi nhuận liệu có đạt kỳ vọng ban đầu đã đưa ra hay không, cũng như có thể đáp ứng được các yêu cầu của các NĐT bên ngoài hay chưa.
Một doanh nghiệp thu hút được các nhà đầu tư chỉ khi mức độ tăng trưởng doanh thu của họ qua từng năm đạt 10%/năm. Đây là mức tăng trưởng cho thấy DN theo từng kỳ luôn phát triển, và lao đầu về phía trước, cùng với thị trường, chứ không dậm chân tại chỗ. Các sản phẩm cũng ngày càng được nhiều khách hàng tiêu thụ hơn, quy mô thị trường của càng mở rộng, và luôn có một vị thế vững chắc qua từng năm, sẵn sàng cạnh tranh với bất kỳ đối thủ trong khu vực.
Với doanh nghiệp Vĩnh Hoàn, trong kỳ gần nhất mức độ tăng trưởng doanh thu của DN tăng 9% so với kỳ trước đó, đây là mức tăng trưởng vẫn chưa đạt được kỳ vọng của NĐT dù chỉ thiếu một chút ít, thêm vào đó mức tăng này cũng không duy trì bền vững và liên tục qua các thời kỳ. Có những thời điểm DN tăng trưởng đạt kỳ vọng 10% so với trước kia, nhưng cũng có những thời điểm chỉ tăng trưởng khoảng 2%. Tuy DN không tăng trưởng quá mạnh, nhưng nó vẫn phát triển theo thời gian, ngày càng lớn mạnh hơn. Nhưng nếu muốn thu hút và tăng trưởng thêm nữa, DN cần phải có những chính sách KD nhằm thúc đẩy mức độ tăng trưởng luôn ở mức trên 10% và duy trì liên tục qua các kỳ, nó sẽ giúp cho DN tăng trưởng nhanh và mạnh thêm nữa trong tương lai. Như đã nói ở trước đó, DN có thể vay thêm nợ để cải thiện mức độ tăng trưởng doanh thu của mình, miễn là họ vẫn giữ được tài chính nằm ở mức an toàn là được.
Cùng với sự tăng trưởng của doanh thu, chúng ta sẽ xem xét mức tỷ suất LNG của doanh nghiệp đang có sự biến đổi ra sao. Trong kỳ gần nhất, doanh nghiệp đạt 19.35%, tăng hơn 36% so với cùng kỳ năm ngoái, đây là một mức tăng khá ấn tượng, cho thấy được DN đang kinh doanh rất hiệu quả với các hoạt động cốt lõi của họ. Mức tăng trưởng này có được nhờ vào sự tăng trưởng doanh thu qua từng kỳ, cộng thêm việc họ bắt đầu kiểm soát các chi phí liên quan trực tiếp đến giá thành sản phẩm một cách hiệu quả hơn, giảm thiểu bớt đi chi phí về GVHB, và qua đó góp phần có mức tăng trưởng tỷ suất LNG rất ấn tượng. Với 1 doanh nghiệp, tỷ suất LNG tăng trưởng đảm bảo cho việc họ đang phát triển một cách rất bền vững, và sự tăng trưởng đó là nhờ từ bên trong DN, với các chính sách tiết kiệm chi phí của họ.
Tiếp theo chúng ta sẽ cùng đánh giá được cặp tỷ suất LN từ HĐKD và tỷ suất LN sau thuế của DN biến động như thế nào trong kỳ vừa qua. Cặp tỷ suất này phản ánh được mức độ hiệu quả của các hoạt động kinh doanh và đầu tư của DN hiện ra sao, và phần trăm lợi nhuận sau thuế mà họ kiếm được là bao nhiêu, chủ yếu phụ thuộc vào điều gì mang lại. Với doanh nghiệp VHC, chúng ta thấy được rằng cặp tỷ suất này có mức phần trăm khá ngang nhau, không có quá nhiều sự chênh lệch, và luôn đồng biến với nhau. Điều này thể hiện cho chúng ta thấy được một điểm tích cực là, hầu hết lợi nhuận DN kiếm được chủ nhờ vào các hoạt động KD, và đầu tư của họ. Nếu họ càng có những kế hoạch mới, tăng trưởng lợi nhuận, giảm bớt chi phí, chủ sở hữu càng kiếm được nhiều tiền hơn, qua đó dẫn họ đến một mục tiêu là luôn tập trung với kế hoạch KD của mình, không bị ảnh hưởng tới những chính sách bên ngoài khác, không có lợi trong quá trình kinh dooanh, tăng hiệu suất DT của họ lên cao hơn nữa trong tương lai.
Khi xét cụ thể tỷ suất LNG từ HĐKD trong kỳ vừa qua, DN đạt 14,25%, tăng gần 24% so với cùng kỳ năm ngoái, điều này cho chúng ta thấy được DN vẫn đang hoạt động rất hiệu quả, các chính sách quản lý giá thành, liên quan đến quảng cáo, bán hàng vẫn duy trì ở mức ổn định, cùng với sự tăng trưởng doanh thu và chi phí giá vốn cải thiện tốt hơn so với năm trước đó, đây là mức tăng trưởng đủ để làm hài lòng doanh nghiệp.
Cuối cùng, các giám đốc tài chính sẽ chú ý về khả năng sinh lời của doanh nghiệp, một DN kinh doanh với mục đích chính là đem lại lợi nhuận cho các chủ đầu tư, và đó cũng là điều mà các quỹ đầu tư mong muốn khi góp vốn vào 1 DN, họ sẽ đánh giá điều này thông qua chỉ số ROE và ROA của DN.
Với ROE, trong kỳ gần nhất doanh nghiệp đạt 19,78%, có nghĩa là 1 đồng mà VCSH góp vô, họ sẽ kiếm được 19,78% lợi nhuận, chỉ số này tăng 45,58% so với cùng kỳ năm ngoái, chính là nhờ các chính sách kiểm soát chi phí cũng như tăng trưởng của DN, đã giúp cho DN có một sự đột phá về lợi nhuận họ kiếm được sau thuế. Với mới tỷ số này, DN có thể thu hút được các quỹ đầu tư vào góp vốn cho mình, tuy đây chỉ mới là kỳ đầu tiên DN đạt được kỳ vọng của NĐT, nhưng với các chính sách hiện có của DN, mình tin là DN sẽ duy trì được tỷ số này qua các kỳ tiếp theo, thậm chí còn tăng hơn nữa nếu họ có thể tăng trưởng doanh thu tốt hơn.
Về ROA, đây là điểm giúp cải thiện ROE rất nhiều, bởi vì để tăng trưởng một cách bền vững, tránh các rủi ro liên quan đến tài chính, buộc DN phải sử dụng hiệu quả được nguồn vốn từ chính bên trong DN, chính là ROA. Trong kỳ vừa qua, DN đã cải thiện hiệu suất sử dụng tài sản lên khá tốt từ 10,29% lên 13,85%, và nó chính là một phần quan trọng để góp phần đẩy ROE lên cao như trên. Và đó cũng chính là điều DN nên làm, luôn cải thiện và sử dụng tối ưu nguồn tài sản của mình hợp lý và hiệu quả nhất có thể.
Tóm lại, DN đang ở trong một tình hình vô cùng tốt và tích cực, với các chỉ số nằm ở mức an toàn, các chính sách về kiểm soát chi phí cũng vô cùng tốt, chỉ số sinh lời cũng nằm trong kỳ vọng của NĐT. Tuy nhiên để phát triển tăng hơn nữa và ngày càng đột phá, DN vẫn cần phải tăng trưởng và duy trì doanh thu của mình ở trạng thái đạt kỳ vọng đưa ra và giữ được các mức tỷ suất như trên, thậm chí là cao hơn. Nếu cải thiện được điều trên, chắc chắn giá cổ phiếu của DN sẽ còn có thể tăng mạnh trong tương lai.
(Bài phân tích chỉ là quan điểm cá nhân. Không phải khuyến nghị đầu tư. Chỉ mang tính chất tham khảo)
Nếu các anh chị muốn biết thêm về cách phân tích báo cáo tài chính làm sao cho thực tế và hiệu quả thì khóa học này là dành cho anh chị:
http://clevercfo.com/khoa-hoc-phan-tich-bao-cao-tai-chinh-online
Phân tích BCTC CTCP Tập đoàn Kido (KDC) Quý 4/2021:
Phân tích BCTC CTCP Tập đoàn Kido (KDC) Quý 4/2021
Khi đánh giá về tình hình tài chính cuả công ty, điều trước tiên mà một giám đốc tài chính xem xét chính là khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp hiện tại như thế nào, và điều này được đánh giá thông qua chỉ số dòng tiền ngắn hạn và dòng tiền dài hạn của doanh nghiệp. Trước tiên...
danketoan.com
Phân tích BCTC CTCP Tập đoàn PAN (PAN) Quý 4/2021
Khi một giám đốc tài chính đánh giá và phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp, điều đầu tiên họ cần xem xét chính là việc liệu doanh nghiệp có đủ nguồn vốn để trả được các khoản nợ của mình hay không, và điều này được đánh giá thông qua việc phân tích chỉ số dòng tiền trong ngắn hạn...
danketoan.com
Phân tích BCTC CTCP Tập đoàn Dabaco Việt Nam (DBC) Quý 4/2021
Tập đoàn Dabaco Việt Nam là một Tập đoàn hoạt động đa ngành nghề, trong đó, lĩnh vực chính là sản xuất thức ăn chăn nuôi, giống gia súc, gia cầm và chế biến thực phẩm. Bên cạnh đó, DABACO còn tham gia vào lĩnh vực đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu đô thị và kinh doanh bất động sản...
danketoan.com