Phân tích BCTC CTCP Tập Đoàn Masan (MSN) Quý 4/2021

Hồ Xuân Quang

Member
Hội viên mới
Khi một CFO đánh giá tình hình tài chính của một công ty, điều trước tiên họ sẽ đánh giá chính là khả năng trả được nợ của doanh nghiệp, thông qua chỉ số dòng tiền ngắn hạn và dòng tiền dài hạn của DN. Đây là một điều vô cùng quan trọng của DN, dòng tiền được coi là một phần không thể thiếu, là máu bên trong DN, nếu có một tỷ suất lợi nhuận rất cao nhưng không có dòng tiền, đây là một điều vô cùng nguy hiểm, có thể dẫn đến rủi ro không trả được nợ và dẫn đến tình trạng phá sản.
Với doanh nghiệp MSN, ở quý 4/2021, chỉ số dòng tiền ngắn hạn của doanh nghiệp đạt 1,26, tăng hơn 65% so với cùng quý năm ngoái, và chỉ số này đã được cải thiện đáng kể hơn rất nhiều trong năm nay. Hiện tại với 1 đồng nợ ngắn hạn, doanh nghiệp có khoảng 1,26 nguồn vốn lưu động để trả nợ, mức chỉ số này đảm bảo cho việc doanh nghiệp có thể trả được các khoản nợ ngắn hạn khi nó đáo hạn mà không gặp phải bất kỳ khó khăn gì. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung của ngành, con số này vẫn đạt mức rất thấp. Điều này được giải thích là tuy DN đủ tiền để trả nợ, tuy nhiên khi trả hết nợ, họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc hoạt động kinh doanh một cách trơn tru liên tục trong ngắn hạn, đồng thời với dòng tiền ít ỏi như vậy, DN chắc chắn không thể xử lý được các tình huống bất ngờ diễn đến, và để cho DN rơi vào trạng thái bị động. Nhìn sang các kỳ trước đó, chúng ta thấy rõ ràng DN đã có sự cải thiện, bởi vì trong những kỳ trước, DN thậm chí còn đạt chỉ số dòng tiền ngắn hạn dưới 1. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp đang dùng nguồn vốn ngắn hạn của mình để đi đầu tư dài. Điều này thật sự là rất nguy hiểm, bởi nếu DN không thể phát hành vốn cổ phần thêm, họ rất có khả năng phải bán đi nguồn tài sản của mình để trả nợ cho các bên vay. Đồng thời sẽ có rất nhiều các khoản nợ xấu xảy đến với DN, dẫn đến việc khó để họ tiếp tục vay thêm các khoản nợ sau này.
Tiếp theo chúng ta cùng xem xét về dòng tiền dài hạn của doanh nghiệp trong quý 4/2021, chỉ số này đạt 66,42% giảm hơn 15% so với cùng quý năm trước. Điều này giúp cho chỉ số này của DN được cải thiện khá đáng kể, 1 đồng tài sản của DN được tài trợ bởi 66,42% là nợ, con số này hiện tại đang nằm ở mức trung bình so với lĩnh vực của DN. Tuy nhiên, DN cần phải cẩn trọng với các khoản nợ dài hạn, bởi vì nhìn ở các kỳ trước đó, dòng tiền dài hạn của DN luôn nằm ở mức báo động, ở những thời điểm này, DN có nguy cơ đối mặt với tình trạng kiệt quệ tài chính, thậm chí là bán đi hết tài sản của mình để trả nợ cho các bên cho vay, cũng như huy động thêm vốn để xử lý các khoản nợ đó. Và với chỉ số vừa được cải thiện như hiện tại không cho phép DN có thể chủ quan được. Bởi vì nếu DN tiếp tục huy động thêm nợ để mua tài sản, hoặc đầu tư tài chính. Rất có khả năng DN không thể trả được các khoản nợ, và rủi ro xảy đến cho DN là rất cao, vì vậy họ luôn cần phải cẩn trọng trong các chiến lược về dòng tiền của mình.
Với những mặt tích cực trong kỳ vừa qua, cho chúng ta thấy được MSN đang có những chiến lược tài chính an toàn hơn, nhằm đảm bảo cho mình có thể duy trì hoạt động liên tục và không gặp quá nhiều những rủi ro liên quan đến nợ, và tất nhiên họ cần phải duy trì điều này qua các kỳ, chứ không phải chỉ là nhất thời.
1650733171038.png

Tiếp theo, các giám đốc tài chính cần đánh giá chất lượng tăng trưởng doanh thu của DN trong kỳ vừa qua, điều này được thể hiện thông qua mức độ tăng trưởng doanh thu qua từng năm, và các tỷ suất lợi nhuận luôn nằm ở mức kỳ vọng so với DN.
Một doanh nghiệp thu hút được các NĐT chỉ khi mức độ tăng trưởng doanh thu của DN đạt 10%/năm và duy trì liên tục qua từng kỳ. Điều này giúp cho DN thể hiện được với các NĐT rằng họ vẫn đang duy trì sự tăng trưởng qua các kỳ là vô cùng ấn tượng, ngày càng tiến lên phía trước cùng với thị trường. Quy mô của doanh nghiệp ngày càng được mở rộng hơn, cùng với đó các sản phẩm cũng được nhiều khách hàng tiêu dùng hơn qua các năm, luôn giữ được lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ cùng lĩnh vực.
Tuy nhiên với MSN, chúng ta có thể thấy được rằng mức tăng trưởng của DN trong kỳ vừa qua đạt mức 3% so với trước đó. Đây là một mức tăng trưởng khá thấp, không thể đạt được kỳ vọng của các nhà đầu tư. Và mức tăng trưởng này được duy trì liên tục qua các kỳ, thể hiện các chiến lược kinh doanh của DN đang gặp rất nhiều vấn đề nhằm tăng trưởng doanh thu, mở rộng thị trường. Nó cũng phản ánh được hiện tại DN đang không quá tập trung và mở rộng vào các hoạt động sản xuất bởi dù có những thời điểm dòng tiền của họ rất thấp, dùng để đầu tư tài sản dài hạn nhưng mức độ tăng trưởng lại không hề cải thiện, đây là một điều không tốt với DN. Bởi vì nếu vẫn duy trì mức tăng trưởng như trên, họ có thể sẽ bị các đối thủ cạnh tranh chiếm lấy thị phần của mình, và sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu hút được khách hàng thêm nữa.
Cùng với sự tăng trưởng doanh thu không quá đáng kể, chúng ta cùng xem tỷ suất LNG của DN đang diễn biến như thế nào. Với Masan, họ vẫn luôn duy trì được TSLN gộp ở mức rất tốt, khi trong kỳ vừa qua, DN đạt 24,97% và tăng 5.4% so với kỳ trước đó. Chúng ta thấy với chỉ số LNG như vậy, công ty hiện đang có TSLN ở mức cạnh tranh cao so với các công ty đối thủ, đây là một điều rất tốt. Vì chỉ số này phản ánh được mức độ hiệu quả của của các hoạt động kinh doanh chính, cốt lõi của DN, với mức tỷ số này, DN vẫn đang giữ được hiệu quả rất cao, các chi phí liên quan trực tiếp đến sản phẩm vẫn đang được xử lý khá tốt. Và nếu giữ mức tăng trưởng này, đồng thời họ có thể tăng trưởng mức doanh thu cao hơn nữa, đây sẽ là điều cực tốt đối với DN, họ sẽ là mốt đối trọng lớn trong lĩnh vực này.
Tiếp theo chúng ta cùng đánh giá về tỷ suất lợi nhuận từ HĐKD và tỷ suất LN sau thuế của DN hiện tại ra sao. Cặp tỷ suất này thể hiện cho chúng ta thấy được sự hiệu quả được trong quá trình kinh doanh của DN và số lợi nhuận mà DN kiếm được thì hầu hết là từ nguồn nào mà có. Và với MSN, chúng ta thấy được rằng cặp chỉ số này luôn đi cùng với nhau, và có mức tỷ số khá cân bằng, không có quá nhiều chênh lệch, nó cho ta thấy được hầu hết nguồn tiền mà DN kiếm được sau thuế là nhờ các hoạt động kinh doanh đầu tư của DN mà ra. Nếu muốn tiếp tục kiếm được nhiều lợi nhuận hơn, buộc DN phải có những chính sách kinh doanh, đầu tư tốt hơn.
Chúng ta cùng đi vào chi tiết với tỷ suất lợi nhuận từ HĐKD của DN, nhìn vào các kỳ trước đó, chúng ta thấy rõ rằng mặc dù DN có một mức tỷ suất LNG vô cùng ấn tượng, tuy nhiên tỷ suất lợi nhuận từ HĐKD lại khá khiêm tốn, điều này là bởi vì DN có một chi phí vận hành, bán hàng và các chi phí tài chính khá cao, điều này là nguyên nhân dẫn đến lợi nhuận từ HĐKD giảm xuống rất thấp, và DN vẫn chưa thể tối ưu hóa chi phí một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên trong kỳ vừa qua, tỷ suất LN từ HĐKD của DN đạt 12,72%, tăng 168% so với kỳ trước đó, đây là một mức tăng trưởng cực kỳ ấn tượng với DN, cho thấy sự họ có sự đôt phá trong đầu tư hay KD. Như đã đề cập ở trước đó, chúng ta đã thấy được DN sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn mình để đầu tư, chỉ số dòng tiền DN rất thấp nhưng họ lại không tập trung vào tăng trưởng thị phần quy mô. Số tiền ấy họ đã sử dụng để đem đi đầu tư và trong kỳ vừa qua, các khoản đầu tư ấy đã mang đến cho họ mốt nguồn doanh thu khổng lồ từ các HĐ tài chính, qua đó tăng tỷ suất lợi nhuận từ HĐKD lên rất cao so với trước đó. Còn về chi phí giá thành, bán hàng,.. chúng ta vẫn chưa thấy được sự cải thiện so với trước đây.
Tuy có mức tăng đáng kể như trên, nhưng thực sự đây cũng không thể được coi là một mức tăng trưởng bền vững của DN, và rất có khả năng tỷ suất này không thể duy trì được liên tục. Điều này cũng đồng nghĩa rằng DN nên có thêm các chính sách khá để mở rộng kinh doanh các sản phẩm cốt lõi của mình, đồng thời giảm thiểu chi phí xuống thấp nhất có thể.
1650733960739.png

Cuối cùng, chỉ tiêu mà một giám đốc tài chính cần xem xét đó chính là khả năng sinh lời của DN, bất kỳ DN nào hoạt động cũng đều muốn mang lại lợi nhuận nhiều nhất có thể, và nó cũng là điều mà các cổ đông chú ý, họ sẽ đánh giá thông qua chỉ số ROE và ROA của DN.
Với chỉ số ROE, như đã nó ở phần trước, doanh thu từ các HĐKD tăng rất mạnh trong kỳ vừa qua, dẫn đến số tiền kiếm được sau thuế cũng tăng cao, khiến cho ROE đạt mức 30,72%, một tỷ suất sinh lời rất ấn tượng, và nó tăng hơn 145% so với kỳ trước đó, 1 đồng mà DN góp vào thì họ sẽ thu được 30,72% lợi nhuận trong kỳ vừa quak chỉ số này đủ để thu hút các quỹ đầu tư vào góp vốn cho DN. Tuy nhiên, nó chưa phải là một mức chỉ số bền vững, vì chắc chắn DN không thể duy trì tỷ lệ ROE cao như vậy qua từng kỳ, đây cũng là kỳ đầu tiên mà DN đạt được, vì thế cần theo dõi thêm qua những kỳ sau, việc tăng trưởng LN sau thuế lúc này không thể được coi là bền vững và lâu dài được, vì doanh thu từ đầu tư không phải lúc này cũng mang lại khoản tiền ấn tượng như trên.
Với ROE tăng trưởng cao như thế, thì ROA góp phần không nhỏ cho mức tăng trưởng của kỳ này, với việc doanh nghiệp đã sử dụng tài sản của mình một cách hiệu quả hơn so với kỳ trước đó, (8,31% so với 3%). Khi DN càng muốn kiếm được nhiều lợi nhuận từ các khoản đầu tư của mình, thì họ cần phải tối đa hóa được lượng tài sản mà DN có được, sử dụng hiệu quả nhất có thể. Đây là cách giúp cho DN tăng trưởng từ chính nguồn lực của mình.
Việc ROE có sự chênh lệch khá lớn so với ROA có lẽ là vì DN sử dụng quá nhiều các khoản nợ để đầu tư cho tài sản của mình, tuy nhiên nếu muốn DN tăng trưởng và kiếm được nhiều lợi nhuận hơn, thì DN phải tối ưu hóa việc sử được tài sản mà mình đang có, chứ không phải là vay thêm nợ từ bên ngoài.
Tóm lại, hiện tại dòng tiền của DN vẫn cần phải được cải thiện thêm nữa, DN cần phải luôn duy trì nó ở một mức ổn định, không nên quá mạo hiểm với tiền của mình. Thêm vào đó, DN cần có nhiều chiến lược kinh doanh nhằm tăng trưởng thị phần, tối ưu hóa các chi phí. Nếu làm được điều trên, có thể DN sẽ luôn là một đối thủ rất lớn trong lĩnh vực của mình.
mẽ trong các kỳ tiếp theo.
Bài phân tích chỉ là quan điểm cá nhân. Không phải khuyến nghị đầu tư. Chỉ mang tính chất tham khảo)
Nếu các anh chị muốn biết thêm về cách phân tích báo cáo tài chính làm sao cho thực tế và hiệu quả thì khóa học này là dành cho anh chị:
http://clevercfo.com/khoa-hoc-phan-tich-bao-cao-tai-chinh-online
Phân tích BCTC CTCP Xuất nhập khẩu Thủy sản Cửu Long An Giang (ACL) Quý 1/2022:
http://danketoan.com/threads/phan-t...-san-cuu-long-an-giang-acl-quy-1-2022.286158/
Phân tích BCTC CTCP Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An (TAR) Quý 4/2021:
Phân tích BCTC CTCP Thực phẩm Sao Ta (FMC) Quý 1/2022:
 

CẨM NANG KẾ TOÁN TRƯỞNG


Liên hệ: 090.6969.247

KÊNH YOUTUBE DKT

Cách làm file Excel quản lý lãi vay

Đăng ký kênh nhé cả nhà

SÁCH QUYẾT TOÁN THUẾ


Liên hệ: 090.6969.247

Top