Công ty Cổ phần Tập đoàn Masan (Masan Group) là một trong những công ty lớn nhất trong khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam, tập trung hoạt động trong ngành hàng tiêu dùng và tài nguyên của Việt Nam. Các công ty thành viên chính của tập đoàn bao gồm: Masan Consumer Holdings, Masan Nutri-Science, Masan Resources, Techcombank.
1. Tình hình hoạt động kinh doanh:
Kết thúc năm 2018, doanh thu thuần của Tập đoàn đạt 38.187 tỷ đồng (tăng 1,51%), lợi nhuận sau thuế đạt 5.621 tỷ đồng (tăng 55,82%). Nguyên nhân làm cho lợi nhuận tăng gấp rưỡi trong khi doanh thu chỉ tăng nhẹ có thể là do biên lợi nhuận gộp tăng từ 30,92% năm 2017 lên 31,11% năm 2018, doanh thu hoạt động tài chính tăng 35,39%. Bên cạnh đó, tiết kiệm chi phí hoạt động kinh doanh cũng đóng góp không nhỏ trong việc làm tăng lợi nhuận, cụ thể chi phí lãi vay giảm 22,35% tươngg ứng 767 tỷ đồng, chi phí bán hàng giảm 18,46% tương ứng 976 tỷ đồng.
2. Tình hình sử dụng tài sản:
Cuối năm 2018, tổng tài sản của Masan group đạt 64.578 tỷ đồng, tăng 1.65% so với năm 2017, trong đó đáng kể đến là các khoản đầu tư tài chính dài hạn tăng 35.36% tương ứng 4.009 tỷ đồng. Nợ ngắn hạn tăng nhẹ (1,69%) so với năm trước, tuy nhiên nợ dài hạn giảm đi đáng kể, giảm 47,05% tương ứng 13.066 tỷ đồng, chỉ còn 14.703 tỷ đồng vào thời điểm cuối năm. Vốn chủ sở hữu đạt 34.079 tỷ đồng, tăng 68,5% so với năm 2017. Như vậy, với lượng tiền tồn đầu kỳ là 7.417 tỷ đồng cùng với vốn chủ sử hữu tăng thêm, công ty chủ yếu dùng để trả nợ dài hạn và đầu tư tài chính dài hạn.
3. Khả năng thanh toán:
Nhìn qua 8 quý, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty ngày càng giảm, đi xa mức an toàn và chỉ đạt 0,79 lần tại quý 4-2018. Điều này cho thấy rằng công ty đang mắc căn bệnh dùng nguồn vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn. Nếu khả năng thanh toán tiếp tục giảm, khả năng gặp các rủi ro tài chính trong tương lai là rất cao.
Như đã nói ở trên, với nỗ lực trả bớt 13.066 tỷ đồng nợ dài hạn làm tỷ lệ nợ của công ty giảm đáng kể, tại quý 4-2018 chỉ còn 47.23%. Tuy nhiên 7 quý trước đó luôn duy trì ở một tỷ lệ khá cao, trên 60% trong khi các doanh nghiệp khác cùng ngành tỷ lệ này chỉ nằm ở khoảng 25% - 35%. Khả năng thanh toán lãi vay (số lũy kế) tuy có tăng lên mức tương đối an toàn nhưng vẫn thấp hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Khả năng thanh toán gốc vay tăng và ở mức thấp.
4. Khả năng sinh lời:
Khả năng sinh lợi của Masan group liên tục tăng qua 4 năm, năm 2018 ROA đạt 8.78% và ROE đạt 20.7%, một mức sinh lợi hấp dẫn nhà đầu tư và cao hơn so với bình quân ngành (ROA: 8.01%, ROE: 14.64%). Đòn bẩy tài chính tăng liên tục 3 năm từ 2015 đến 2017 và giảm ở năm 2018, tuy nhiên vẫn cao hơn so với bình quân ngành là 1.82 lần. Chỉ số P/E của công ty hiện tại là 19.4 với EPS là 4.560 đồng. Cổ phiếu của công ty hiện đang được các nhà đầu tư mua với giá khoảng 86.000 đồng, cao hơn khoảng 3,6 lần so với giá trị sổ sách.
Năm 2019, Masan group đặt mục tiêu lợi nhuận sau thuế nằm trong khoảng 5.000 – 5.500 tỷ đồng, tăng 50% so với 3.400 – 4.000 năm 2018. Để đạt được mục tiêu này, MSN dự kiến sẽ tăng tốc quá trình “cao cấp hóa” dòng gia vị, mì ăn liền và đồ uống; phát triển sản phẩm mới là thịt tươi MEATDeli và tiếp tục giảm chi phí lãi vay. Như vậy, bên cạnh việc cải tiến, phát triển sản phẩm mới, Masan cần phải chú ý nâng cao sức khỏe tài chính của Tập đoàn bằng việc cải thiện khả năng thanh toán ngắn hạn và trả bớt nợ đế giảm bớt các áp lực tài chính.
(Các ý kiến nêu trong bài phân tích ở trên hoàn toàn dựa trên quan điểm cá nhân.)
1. Tình hình hoạt động kinh doanh:
Kết thúc năm 2018, doanh thu thuần của Tập đoàn đạt 38.187 tỷ đồng (tăng 1,51%), lợi nhuận sau thuế đạt 5.621 tỷ đồng (tăng 55,82%). Nguyên nhân làm cho lợi nhuận tăng gấp rưỡi trong khi doanh thu chỉ tăng nhẹ có thể là do biên lợi nhuận gộp tăng từ 30,92% năm 2017 lên 31,11% năm 2018, doanh thu hoạt động tài chính tăng 35,39%. Bên cạnh đó, tiết kiệm chi phí hoạt động kinh doanh cũng đóng góp không nhỏ trong việc làm tăng lợi nhuận, cụ thể chi phí lãi vay giảm 22,35% tươngg ứng 767 tỷ đồng, chi phí bán hàng giảm 18,46% tương ứng 976 tỷ đồng.
2. Tình hình sử dụng tài sản:
Cuối năm 2018, tổng tài sản của Masan group đạt 64.578 tỷ đồng, tăng 1.65% so với năm 2017, trong đó đáng kể đến là các khoản đầu tư tài chính dài hạn tăng 35.36% tương ứng 4.009 tỷ đồng. Nợ ngắn hạn tăng nhẹ (1,69%) so với năm trước, tuy nhiên nợ dài hạn giảm đi đáng kể, giảm 47,05% tương ứng 13.066 tỷ đồng, chỉ còn 14.703 tỷ đồng vào thời điểm cuối năm. Vốn chủ sở hữu đạt 34.079 tỷ đồng, tăng 68,5% so với năm 2017. Như vậy, với lượng tiền tồn đầu kỳ là 7.417 tỷ đồng cùng với vốn chủ sử hữu tăng thêm, công ty chủ yếu dùng để trả nợ dài hạn và đầu tư tài chính dài hạn.
3. Khả năng thanh toán:
Nhìn qua 8 quý, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty ngày càng giảm, đi xa mức an toàn và chỉ đạt 0,79 lần tại quý 4-2018. Điều này cho thấy rằng công ty đang mắc căn bệnh dùng nguồn vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn. Nếu khả năng thanh toán tiếp tục giảm, khả năng gặp các rủi ro tài chính trong tương lai là rất cao.
Như đã nói ở trên, với nỗ lực trả bớt 13.066 tỷ đồng nợ dài hạn làm tỷ lệ nợ của công ty giảm đáng kể, tại quý 4-2018 chỉ còn 47.23%. Tuy nhiên 7 quý trước đó luôn duy trì ở một tỷ lệ khá cao, trên 60% trong khi các doanh nghiệp khác cùng ngành tỷ lệ này chỉ nằm ở khoảng 25% - 35%. Khả năng thanh toán lãi vay (số lũy kế) tuy có tăng lên mức tương đối an toàn nhưng vẫn thấp hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Khả năng thanh toán gốc vay tăng và ở mức thấp.
4. Khả năng sinh lời:
Khả năng sinh lợi của Masan group liên tục tăng qua 4 năm, năm 2018 ROA đạt 8.78% và ROE đạt 20.7%, một mức sinh lợi hấp dẫn nhà đầu tư và cao hơn so với bình quân ngành (ROA: 8.01%, ROE: 14.64%). Đòn bẩy tài chính tăng liên tục 3 năm từ 2015 đến 2017 và giảm ở năm 2018, tuy nhiên vẫn cao hơn so với bình quân ngành là 1.82 lần. Chỉ số P/E của công ty hiện tại là 19.4 với EPS là 4.560 đồng. Cổ phiếu của công ty hiện đang được các nhà đầu tư mua với giá khoảng 86.000 đồng, cao hơn khoảng 3,6 lần so với giá trị sổ sách.
Năm 2019, Masan group đặt mục tiêu lợi nhuận sau thuế nằm trong khoảng 5.000 – 5.500 tỷ đồng, tăng 50% so với 3.400 – 4.000 năm 2018. Để đạt được mục tiêu này, MSN dự kiến sẽ tăng tốc quá trình “cao cấp hóa” dòng gia vị, mì ăn liền và đồ uống; phát triển sản phẩm mới là thịt tươi MEATDeli và tiếp tục giảm chi phí lãi vay. Như vậy, bên cạnh việc cải tiến, phát triển sản phẩm mới, Masan cần phải chú ý nâng cao sức khỏe tài chính của Tập đoàn bằng việc cải thiện khả năng thanh toán ngắn hạn và trả bớt nợ đế giảm bớt các áp lực tài chính.
(Các ý kiến nêu trong bài phân tích ở trên hoàn toàn dựa trên quan điểm cá nhân.)