Em yêu loài hoa tigon cánh trắng. Loài hoa hình trái tim vỡ man mác buồn, mang đầy tâm sự của một người đang yêu. Loài hoa đã một thời làm nên câu chuyện tình yêu nồng nàn sâu sắc mà kết thúc buồn như ý nghĩa của chính nó vậy....
"Hoa leo ti-gôn sắc đỏ,sắc hồng , sắc trắng năm nào cũng vậy,một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người…”
Sáng nào cũng vậy hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ Thuật về qua phố Tràng Tiền,hoạ sĩ Lê cũng không quên mua một bó hoa “ti-gôn”. Đó là thói quen của hoạ sư mà không một người bạn hay người học trò thân nào mà không biết rõ. Đến mùa hoa ti-gôn nở nhiều nhất, trong nhà hoạ sư Lê người ta không còn thấy một thứ hoa nào khác.Mà có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ,họ sẽ cho lời nhận xét của hoạ sư Lê là đúng: “Hoa ti-gôn” hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuộm máu đào”.Rồi người ta phải tự hỏi thầm:
“Tại sao hoạ sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá một ngày đã rụng rồi? Chắc có điều tâm sự chi đây”.
Một buổi trưa - hồi đó Lê Chất 24 tuổi, còn là một hoạ sĩ nghèo mới ra trường- một buổi trưa đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội, Lê Chất rẽ vào làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe.Người thiếu niên ấy đi tìm cảnh đẹp.
Mà cảnh đẹp đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua.
Đến gần một ngôi nhà cũ kỹ,trông ra dáng biệt thự của một ông quan hưu dùng làm chỗ nghỉ ngơi.Chất hãm xe,nghểnh cổ nhìn qua một hang rào cây tốt um tùm. Chiều qua, lúc Chất sắp đạp xe rất nhanh qua đó, tình cờ liếc mắt vào nhà, bỗng thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay lên những dây hoa đỏ trên giàn nứa.Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khoẻ mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ: Hai má ửng hồng, vài sợi tóc trên vừng trán, cảnh “con gái hái hoa” ấy như một bức tranh linh động, khiến người hoạ sĩ phải dừng chân đứng ngắm không chán mắt. Khuôn mặt đầy đặn, vẻ đẹp thông minh,nhất là đôi môi có một nét vẻ lạ, đó là thứ nhan sắc hiếm hoi,ai trông thấy một lần đều in sâu trong trí nhớ. Thiếu nữ vô tình, bận gỡ hoa trên giàn đã để Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Đến khi cô gái bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt nhìn ra đường thấy có người đứng nhìn mình, mới cau mày tỏ vẻ không bằng lòng.
Nhưng từ hôm đó, hôm nào họa sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, vì còn bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động trông thấy bóng anh chàng là lẩn vào nhà.
Lê Chất chỉ còn thấy nàng vài lần nữa là thôi bởi vì ngôi nhà hình như sau đó không có người ở nữa , ngày nào cũng chỉ thấy một ông già cuốc cỏ trong vườn.
Rất lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại khuôn mặt, thân hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Anh đã vẽ nhiều croquis cất trong album để ghi giữ lại rồi dần dần cũng quên đi…
Lê Chất đã nổi tiếng. Thầy học cũ của anh vì mến tài, đã đưa anh lên một địa vị mà nhiều người ghen tỵ. Tranh của anh được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán với giá cao: Anh đã bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ người, nhất là tranh vẽ đàn bà đã khiến các bạn Chất tặng cho cái tên: “Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp”. Họa sĩ đã trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính. Lê Chất bây giờ đã đứng tuổi, từ lâu không còn là gã họa sĩ nghèo huýt sáo đạp xe quanh vùng lân cận Hà Thành đi tìm cảnh đẹp, với giá vẽ buộc trên xe đạp.
Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi của tòa lãnh sự Pháp, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ ta, đẹp một vẻ khác thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần đã gặp người này. Ở đâu? Chất giật mình. Có thể nào? Nhưng quên làm sao được khuôn mặt ấy, đôi môi ấy? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rõ: Thiếu phụ là vợ một viên chức trong tòa lãnh sự.
Trong khi nhảy với thiếu phụ một bản tăng-gô, Lê Chất đột nhiên hỏi:
- Bà vẫn thích hái hoa ti gôn chứ?
Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên:
- Ông nói gì… tôi không hiểu.
- Có lẽ bà đã quên Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa…
Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh:
- Có phải ông là cái anh chàng họa sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày trước đó không?
Nàng nói tiếp:
- Thảo nào mới nhìn ông tôi cũng tự nghĩ không biết đã gặp ở đâu rồi. Tám chín năm rồi đấy, thế mà chúng ta còn nhận được nhau…
Mai Hạnh – tên thiếu phụ – rất buồn ở Vân Nam phủ. Nàng không có bạn. Lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà mình, cuộc đời nàng bằng phẳng nơi đất khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó lại đã dự vào dĩ vãng tươi đẹp của mình, một họa sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm sao được? Hạnh thường đến chỗ họa sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận cho chàng vẽ một bức chân dung.
Một buổi sáng, hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo leo đỉnh núi, Lê Chất nói:
- Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì không bao giờ tôi quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể thành đôi bạn thôi ư? Hạnh có đoán được lòng tôi lúc này không?
Mai Hạnh, giọng run run tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất. Nhưng khi Chất đã ôm nàng thì Hạnh không cưỡng lại:
- Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.
Thế là, hai người như sống trong một cơn mê.
Mai Hạnh cố chống chọi lại với tình yêu mỗi ngày một lớn, còn Lê Chất thì lo ngại, tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng định cùng Hạnh trốn đi Nhật, không cần danh dự, chức nghiệp, dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh tuy yếu đuối hơn, rụt rè, e ngại sau cùng cũng nhận lời.
Lê Chất trở về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc, lo lót giấy tờ tiền bạc, đồ dùng đi xa, tất cả đã sẵn sàng, thì phút cuối cùng nhận được thư của Hạnh: “Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không có thể theo anh. Đừng giận em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó khăn như anh đã tưởng. Đến phút cuối cùng, em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai… Em thấy rằng: nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đã sung sướng. Anh thấy chưa? Em là một đứa hèn! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, vì em đã hy sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết vì anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện, anh có thể quên em được đấy! Nhưng còn em thì chẳng bao giờ, chẳng bao giờ! Vì em biết em sẽ không bao giờ tự an ủi được, bởi em đã làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo anh…”
Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra: những nụ hoa chum chúm hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào.
Lê Chất đặt một cái hôn trên những cánh hoa, và khóc. Nhưng đó là một kẻ đàn ông có nghị lực. Chàng đi du lịch xứ Phù Tang có một mình.
Bốn năm sau, một hôm họa sư Lê Chất thấy trên bàn giấy mình một phong thư viền đen báo tang. Chàng mở ra xem thì ra của người chồng Mai Hạnh báo tin rằng nàng đã chết. Họa sư đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những dây hoa "Tigôn" màu máu đào, hình quả tim vỡ làm mấy mảnh. Rồi trở về Hà Nội, chàng mới sực nhớ ra rằng quên không hỏi để xem Mai Hạnh chết vì sầu muộn, hay vì một cơn cảm, sốt... chết về một bệnh gì?
Ngày nay, họa sư Lê Chất đã già rồi, nhưng cứ đến mùa hoa "Tigôn" nở nhiều nhất, không buổi sáng nào họa sư quên mua một ôm về để thay cho hoa cũ trong phòng vẽ, vì thứ hoa ấy chóng tàn.
"Hoa leo ti-gôn sắc đỏ,sắc hồng , sắc trắng năm nào cũng vậy,một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người…”
Sáng nào cũng vậy hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ Thuật về qua phố Tràng Tiền,hoạ sĩ Lê cũng không quên mua một bó hoa “ti-gôn”. Đó là thói quen của hoạ sư mà không một người bạn hay người học trò thân nào mà không biết rõ. Đến mùa hoa ti-gôn nở nhiều nhất, trong nhà hoạ sư Lê người ta không còn thấy một thứ hoa nào khác.Mà có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ,họ sẽ cho lời nhận xét của hoạ sư Lê là đúng: “Hoa ti-gôn” hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuộm máu đào”.Rồi người ta phải tự hỏi thầm:
“Tại sao hoạ sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá một ngày đã rụng rồi? Chắc có điều tâm sự chi đây”.
***
Một buổi trưa - hồi đó Lê Chất 24 tuổi, còn là một hoạ sĩ nghèo mới ra trường- một buổi trưa đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội, Lê Chất rẽ vào làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe.Người thiếu niên ấy đi tìm cảnh đẹp.
Mà cảnh đẹp đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua.
Đến gần một ngôi nhà cũ kỹ,trông ra dáng biệt thự của một ông quan hưu dùng làm chỗ nghỉ ngơi.Chất hãm xe,nghểnh cổ nhìn qua một hang rào cây tốt um tùm. Chiều qua, lúc Chất sắp đạp xe rất nhanh qua đó, tình cờ liếc mắt vào nhà, bỗng thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay lên những dây hoa đỏ trên giàn nứa.Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khoẻ mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ: Hai má ửng hồng, vài sợi tóc trên vừng trán, cảnh “con gái hái hoa” ấy như một bức tranh linh động, khiến người hoạ sĩ phải dừng chân đứng ngắm không chán mắt. Khuôn mặt đầy đặn, vẻ đẹp thông minh,nhất là đôi môi có một nét vẻ lạ, đó là thứ nhan sắc hiếm hoi,ai trông thấy một lần đều in sâu trong trí nhớ. Thiếu nữ vô tình, bận gỡ hoa trên giàn đã để Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Đến khi cô gái bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt nhìn ra đường thấy có người đứng nhìn mình, mới cau mày tỏ vẻ không bằng lòng.
Nhưng từ hôm đó, hôm nào họa sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, vì còn bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động trông thấy bóng anh chàng là lẩn vào nhà.
Lê Chất chỉ còn thấy nàng vài lần nữa là thôi bởi vì ngôi nhà hình như sau đó không có người ở nữa , ngày nào cũng chỉ thấy một ông già cuốc cỏ trong vườn.
Rất lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại khuôn mặt, thân hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Anh đã vẽ nhiều croquis cất trong album để ghi giữ lại rồi dần dần cũng quên đi…
Lê Chất đã nổi tiếng. Thầy học cũ của anh vì mến tài, đã đưa anh lên một địa vị mà nhiều người ghen tỵ. Tranh của anh được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán với giá cao: Anh đã bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ người, nhất là tranh vẽ đàn bà đã khiến các bạn Chất tặng cho cái tên: “Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp”. Họa sĩ đã trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính. Lê Chất bây giờ đã đứng tuổi, từ lâu không còn là gã họa sĩ nghèo huýt sáo đạp xe quanh vùng lân cận Hà Thành đi tìm cảnh đẹp, với giá vẽ buộc trên xe đạp.
Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi của tòa lãnh sự Pháp, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ ta, đẹp một vẻ khác thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần đã gặp người này. Ở đâu? Chất giật mình. Có thể nào? Nhưng quên làm sao được khuôn mặt ấy, đôi môi ấy? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rõ: Thiếu phụ là vợ một viên chức trong tòa lãnh sự.
Trong khi nhảy với thiếu phụ một bản tăng-gô, Lê Chất đột nhiên hỏi:
- Bà vẫn thích hái hoa ti gôn chứ?
Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên:
- Ông nói gì… tôi không hiểu.
- Có lẽ bà đã quên Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa…
Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh:
- Có phải ông là cái anh chàng họa sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày trước đó không?
Nàng nói tiếp:
- Thảo nào mới nhìn ông tôi cũng tự nghĩ không biết đã gặp ở đâu rồi. Tám chín năm rồi đấy, thế mà chúng ta còn nhận được nhau…
Mai Hạnh – tên thiếu phụ – rất buồn ở Vân Nam phủ. Nàng không có bạn. Lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà mình, cuộc đời nàng bằng phẳng nơi đất khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó lại đã dự vào dĩ vãng tươi đẹp của mình, một họa sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm sao được? Hạnh thường đến chỗ họa sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận cho chàng vẽ một bức chân dung.
Một buổi sáng, hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo leo đỉnh núi, Lê Chất nói:
- Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì không bao giờ tôi quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể thành đôi bạn thôi ư? Hạnh có đoán được lòng tôi lúc này không?
Mai Hạnh, giọng run run tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất. Nhưng khi Chất đã ôm nàng thì Hạnh không cưỡng lại:
- Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.
Thế là, hai người như sống trong một cơn mê.
Mai Hạnh cố chống chọi lại với tình yêu mỗi ngày một lớn, còn Lê Chất thì lo ngại, tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng định cùng Hạnh trốn đi Nhật, không cần danh dự, chức nghiệp, dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh tuy yếu đuối hơn, rụt rè, e ngại sau cùng cũng nhận lời.
Lê Chất trở về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc, lo lót giấy tờ tiền bạc, đồ dùng đi xa, tất cả đã sẵn sàng, thì phút cuối cùng nhận được thư của Hạnh: “Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không có thể theo anh. Đừng giận em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó khăn như anh đã tưởng. Đến phút cuối cùng, em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai… Em thấy rằng: nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đã sung sướng. Anh thấy chưa? Em là một đứa hèn! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, vì em đã hy sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết vì anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện, anh có thể quên em được đấy! Nhưng còn em thì chẳng bao giờ, chẳng bao giờ! Vì em biết em sẽ không bao giờ tự an ủi được, bởi em đã làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo anh…”
Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra: những nụ hoa chum chúm hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào.
Lê Chất đặt một cái hôn trên những cánh hoa, và khóc. Nhưng đó là một kẻ đàn ông có nghị lực. Chàng đi du lịch xứ Phù Tang có một mình.
*
Bốn năm sau, một hôm họa sư Lê Chất thấy trên bàn giấy mình một phong thư viền đen báo tang. Chàng mở ra xem thì ra của người chồng Mai Hạnh báo tin rằng nàng đã chết. Họa sư đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những dây hoa "Tigôn" màu máu đào, hình quả tim vỡ làm mấy mảnh. Rồi trở về Hà Nội, chàng mới sực nhớ ra rằng quên không hỏi để xem Mai Hạnh chết vì sầu muộn, hay vì một cơn cảm, sốt... chết về một bệnh gì?
Ngày nay, họa sư Lê Chất đã già rồi, nhưng cứ đến mùa hoa "Tigôn" nở nhiều nhất, không buổi sáng nào họa sư quên mua một ôm về để thay cho hoa cũ trong phòng vẽ, vì thứ hoa ấy chóng tàn.
Tiểu thuyết thứ bảy, 9-1937
Sửa lần cuối: