giá xuất kho-thực tế đích danh!

MAIKO

New Member
Hội viên mới
Có ai giải thích dùm mình tại sao cty áp dụng phương pháp thực tế đích danh?
các pp khác thì mình hiểu còn cái này thì không bít giải thích.Cám ơn đã chú ý tới câu hỏi của mình nha.
 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Có ai giải thích dùm mình tại sao cty áp dụng phương pháp thực tế đích danh?
các pp khác thì mình hiểu còn cái này thì không bít giải thích.Cám ơn đã chú ý tới câu hỏi của mình nha.

Phương pháp thực tế đích danh áp dụng cho các doanh nghiệp có số lượng hàng ít và việc nhập xuất chủ yếu theo lô (việc nhập xuất của lô hàng hóa đó rõ dàng).

Khi xuất hàng căn cứ vào thực tế của chính hàng đó (giá của lô đó) làm giá vốn. Trên thực tế phương pháp này áp dụng ko nhiều.
 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Phương pháp thực tế đích danh áp dụng cho các doanh nghiệp có số lượng hàng ít và việc nhập xuất chủ yếu theo lô (việc nhập xuất của lô hàng hóa đó rõ dàng).

Khi xuất hàng căn cứ vào thực tế của chính hàng đó (giá của lô đó) làm giá vốn. Trên thực tế phương pháp này áp dụng ko nhiều.
Bổ sung thêm ý kiến của bạn 1 tí.

Phương pháp giá thực tế đích danh :

Theo phương pháp này sản phẩm, vật tư, hàng hoá xuất kho thuộc lô hàng nhập nào thì lấy đơn giá nhập kho của lô hàng đó để tính. Đây là phương án tốt nhất, nó tuân thủ nguyên tắc phù hợp của kế toán; chi phí thực tế phù hợp với doanh thu thực tế. Giá trị của hàng xuất kho đem bán phù hợp với doanh thu mà nó tạo ra. Hơn nữa, giá trị hàng tồn kho được phản ánh đúng theo giá trị thực tế của nó.

Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này đòi hỏi những điều kiện khắt khe, chỉ những doanh nghiệp kinh doanh có ít loại mặt hàng, hàng tồn kho có giá trị lớn, mặt hàng ổn định và loại hàng tồn kho nhận diện được thì mới có thể áp dụng được phương pháp này. Còn đối với những doanh nghiệp có nhiều loại hàng thì không thể áp dụng được phương pháp này.

Thân !!!
 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Phương pháp thực tế đích danh áp dụng cho các doanh nghiệp có số lượng hàng ít và việc nhập xuất chủ yếu theo lô (việc nhập xuất của lô hàng hóa đó rõ dàng).

Khi xuất hàng căn cứ vào thực tế của chính hàng đó (giá của lô đó) làm giá vốn. Trên thực tế phương pháp này áp dụng ko nhiều.

pp này thường thì chỉ có các dn thương mại mới áp dụng thôi đúng ko? còn các dn sx thì thg sd pp bquân,nhập trước xuất trước và nhập sau xuất trước .
 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Bạn ơi, mình mới bắt đầu học kế toán, có thể chỉ rõ hơn chút được ko, mình hiểu chậm lắm, mong các ban thông cảm nha
-----------------------------------------------------------------------------------------
EM CÓ BÀI TẬP THẾ NÀY
TỒN ĐẦU THÁNG
* Mặt hàng A: số lượng: 59 Đơn giá :1000D
* Mặt hàng B: số lượng: 60 Đơn giá: 1500D
NHẬP TRONG THÁNG LẦN I
* Mặt hàng A: số lượng: 120 Đơn giá :1100D
* Mặt hàng B: số lượng: 120 Đơn giá :1600D
NHẬP TRONG THÁNG LẦN II
* Mặt hàng A: số lượng: 140 Đơn giá :1050D
* Mặt hàng B: số lượng: 150 Đơn giá :1700D
TỒN CUỐI THÁNG
* Mặt hàng A: số lượng: 60
* Mặt hàng B: số lượng: 60
Doanh thu chưa có thuế giá trị gia tăng: 838000D
Chi phí bán hàng
- Khấu hao tài sản cố định: 13000D
- Lương nhân viên: 17000D
- Chi phi khac:10000D
YÊU CẦU
Bạn hãy tính mức lời sau thuế của cty trong tháng theo 4 phương pháp tính giá trị hàng tồn kho. Biết thuế suất thuế thu nhập là 28%

MỌI NGƯỜI CHỈ DÙM EM CÁCH GIẢI BẰNG PHƯƠNG PHÁP THỰC TẾ ĐÍCH DANH VỚI, MÌNH KHÔNG HIỂU RÕ CHO LẮM. GIÚP MÌNH VỚI NHA
3 PHƯƠNG PHÁP KIA MÌNH GIẢI ĐƯỢC RỒI, CÒN PHƯƠNG PHÁP ĐÍCH DANH NẮM KHÔNG RÕ NÊN CHƯA BIẾT GIẢI QUYẾT RA SAO
 
Sửa lần cuối:
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Phương pháp thực tế đích danh áp dụng cho các doanh nghiệp có số lượng hàng ít và việc nhập xuất chủ yếu theo lô (việc nhập xuất của lô hàng hóa đó rõ dàng).
Trên thực tế phương pháp này áp dụng ko nhiều.
Cả 2 nguyên nhân đó không phải là lý do để áp dụng thực tế đích danh.
- số lượng hàng ít: ít hay nhiều thì mọi PP tính giá xuất kho đều phải tính theo từng mặt hàng.
- việc nhập xuất của lô hàng hóa đó rõ dàng: kế toán thì phải lập chứng từ nhập xuất rõ ràng, chẳng kể là PP nào cả.
Bổ sung thêm ý kiến của bạn 1 tí.
Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này đòi hỏi những điều kiện khắt khe, chỉ những doanh nghiệp kinh doanh có ít loại mặt hàng, hàng tồn kho có giá trị lớn, mặt hàng ổn định và loại hàng tồn kho nhận diện được thì mới có thể áp dụng được phương pháp này. Còn đối với những doanh nghiệp có nhiều loại hàng thì không thể áp dụng được phương pháp này.
Thân !!!

Giả sử DN có 1000 loại hàng: bù-lon 1ly, 2ly, 3ly ... 1000ly (ly = milimét)
thì có PP nào tính chung giá của chúng như là 1 mặt hàng bu-lon duy nhất hay không?
Dĩ nhiên là không.

Giả sử DN nhập và xuất bán bu-lon các cỡ đều tính theo kí-lô, cân ký mà tính tiền thì PP nào cũng đều đơn giản như nhau.

========
Áp dụng PP nào là tuỳ vào nhận định tầm quan trọng của tài chánh của người quản lý.
Các PP tính giá xuất kho không bị ảnh hưởng nhiều bởi điều kiện kỹ thuật kế toán.
Thuần tuý chúng chỉ có ý nghĩa tài chánh mà thôi.
Cả 4 PP tính giá xuất kho đều được công nhận là hợp lý và đúng về mặt lý luận toán học.
DN có quyền chọn lựa PP. Và người ta sẽ không bắt bẻ hay bình phẩm quyết định đó của DN.
 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Bạn ơi, mình mới bắt đầu học kế toán, có thể chỉ rõ hơn chút được ko, mình hiểu chậm lắm, mong các ban thông cảm nha
-----------------------------------------------------------------------------------------
EM CÓ BÀI TẬP THẾ NÀY
TỒN ĐẦU THÁNG
* Mặt hàng A: số lượng: 59 Đơn giá :1000D
* Mặt hàng B: số lượng: 60 Đơn giá: 1500D
NHẬP TRONG THÁNG LẦN I
* Mặt hàng A: số lượng: 120 Đơn giá :1100D
* Mặt hàng B: số lượng: 120 Đơn giá :1600D
NHẬP TRONG THÁNG LẦN II
* Mặt hàng A: số lượng: 140 Đơn giá :1050D
* Mặt hàng B: số lượng: 150 Đơn giá :1700D
TỒN CUỐI THÁNG
* Mặt hàng A: số lượng: 60
* Mặt hàng B: số lượng: 60
Doanh thu chưa có thuế giá trị gia tăng: 838000D
Chi phí bán hàng
- Khấu hao tài sản cố định: 13000D
- Lương nhân viên: 17000D
- Chi phi khac:10000D
YÊU CẦU
Bạn hãy tính mức lời sau thuế của cty trong tháng theo 4 phương pháp tính giá trị hàng tồn kho. Biết thuế suất thuế thu nhập là 28%

MỌI NGƯỜI CHỈ DÙM EM CÁCH GIẢI BẰNG PHƯƠNG PHÁP THỰC TẾ ĐÍCH DANH VỚI, MÌNH KHÔNG HIỂU RÕ CHO LẮM. GIÚP MÌNH VỚI NHA
3 PHƯƠNG PHÁP KIA MÌNH GIẢI ĐƯỢC RỒI, CÒN PHƯƠNG PHÁP ĐÍCH DANH NẮM KHÔNG RÕ NÊN CHƯA BIẾT GIẢI QUYẾT RA SAO

Với PP LIFO thì bạn thấy rằng mặt hàng A tồn cuối kỳ 60 gồm có: 59 x 1000đ + 1 x 1.100đ
Với PP FIFO thì bạn thấy rằng mặt hàng A tồn cuối kỳ 60 gồm có: 60 x 1050đ
Tại sao bạn biết điều đó? - Vì nó đã được quy ước trước.

Với PP đích danh thì mặt hàng A tồn cuối kỳ gồm những đơn giá nào?
Do không có quy ước trước -> bạn tự chọn , đơn giá nào cũng được.

Giả sử tôi chọn: 20 x 1000 + 20 x 1100 + 20 x 1050.
Còn bạn chọn: 50 x 1000 + 10 x 1050.
Cả 2 đều đúng.
------------
Lưu ý: mặt hàng A số tồn đầu kỳ và số nhập trong kỳ lần I, lần II đều có cùng phẩm chất, quy cách như nhau.
Và do đó để chung 1 đống trong kho cũng không phân biệt được.
Không nhất thiết thủ kho phải tách thành 3 đống riêng biệt.

Chính điều này nói lên rằng: các PP tính giá xuất kho mang ý nghĩa tài chánh chứ không phải là quản lý.
 
Sửa lần cuối:
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Giả sử DN có 1000 loại hàng: bù-lon 1ly, 2ly, 3ly ... 1000ly (ly = milimét)
thì có PP nào tính chung giá của chúng như là 1 mặt hàng bu-lon duy nhất hay không?
Dĩ nhiên là không.

Giả sử DN nhập và xuất bán bu-lon các cỡ đều tính theo kí-lô, cân ký mà tính tiền thì PP nào cũng đều đơn giản như nhau.

========
Áp dụng PP nào là tuỳ vào nhận định tầm quan trọng của tài chánh của người quản lý.
Các PP tính giá xuất kho không bị ảnh hưởng nhiều bởi điều kiện kỹ thuật kế toán.
Thuần tuý chúng chỉ có ý nghĩa tài chánh mà thôi.
Cả 4 PP tính giá xuất kho đều được công nhận là hợp lý và đúng về mặt lý luận toán học.
DN có quyền chọn lựa PP. Và người ta sẽ không bắt bẻ hay bình phẩm quyết định đó của DN.
Nguyên văn bởi Philosopher
Bổ sung thêm ý kiến của bạn 1 tí.
Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này đòi hỏi những điều kiện khắt khe, chỉ những doanh nghiệp kinh doanh có ít loại mặt hàng, hàng tồn kho có giá trị lớn, mặt hàng ổn định và loại hàng tồn kho nhận diện được thì mới có thể áp dụng được phương pháp này. Còn đối với những doanh nghiệp có nhiều loại hàng thì không thể áp dụng được phương pháp này.
Thân !!!
Với Ví dụ của Pác thì phải bôi đỏ đoạn này của em.
 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Với Ví dụ của Pác thì phải bôi đỏ đoạn này của em.
Như thế nào là nhận diện được?

Nếu không nhận diện được thì áp dụng LIFO hay FIFO hay Bình quân được hay không? Cho ví dụ?
 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Phương pháp tính giá xuất hàng tồn kho
________________________________________
Phương pháp tính giá xuất hàng tồn kho (Phần 1)

Hàng tồn kho trong các doanh nghiệp tăng từ nhiều nguồn khác nhau với các đơn giá khác nhau, vì vậy doanh nghiệp cần lựa chọn phương pháp tính giá thực tế hàng xuất kho… việc lựa chọn phương pháp nào còn tuỳ thuộc vào đặc điểm của hàng tồn kho, yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp.

Song doanh nghiệp áp dụng phương pháp nào đòi hỏi phải nhất quán trong suốt niên độ kế toán. Nếu có sự thay đổi phải giải trình và thuyết minh, nêu rõ những tác động của sự thay đổi tới các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Để tính giá hàng tồn kho xuất, doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp sau đây:

* Phương pháp giá thực tế đích danh.

Theo phương pháp này sản phẩm, vật tư, hàng hoá xuất kho thuộc lô hàng nhập nào thì lấy đơn giá nhập kho của lô hàng đó để tính. Đây là phương án tốt nhất, nó tuân thủ nguyên tắc phù hợp của kế toán; chi phí thực tế phù hợp với doanh thu thực tế. Giá trị của hàng xuất kho đem bán phù hợp với doanh thu mà nó tạo ra. Hơn nữa, giá trị hàng tồn kho được phản ánh đúng theo giá trị thực tế của nó.

Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này đòi hỏi những điều kiện khắt khe, chỉ những doanh nghiệp kinh doanh có ít loại mặt hàng, hàng tồn kho có giá trị lớn, mặt hàng ổn định và loại hàng tồn kho nhận diện được thì mới có thể áp dụng được phương pháp này. Còn đối với những doanh nghiệp có nhiều loại hàng thì không thể áp dụng được phương pháp này.

*Phương pháp giá bình quân: Theo phương pháp này giá trị của từng loại hàng tồn kho được tính theo giá trị trung bình của từng loại hàng tồn kho đầu kỳ và giá trị từng loại hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất trong kỳ. Phương pháp bình quân có thể được tính theo thời kỳ hoặc vào mỗi khi nhập một lô hàng , phụ thuộc vào tình hình của doanh nghiệp.

** Theo giá bình quân gia quyền cả kỳ dự trữ

Theo phương pháp này, đến cuối kỳ mới tính trị giá vốn của hàng xuất kho trong kỳ. Tuỳ theo kỳ dự trữ của doanh nghiệp áp dụng mà kế toán hàng tồn kho căn cứ vào giá mua, giá nhập, lượng hàng tồn kho đầu kỳ và nhập trong kỳ để tính giá đơn vị bình quân:

Giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ = (Trị giá thực tế vật tư, SP, hàng hoá tồn kho đầu kỳ + Trị giá thực tế vật tư, SP, hàng hoá nhập kho trong kỳ) / (Số lượng vật tư, SP,hàng hoá tồn đầu kỳ + Số lượng vật tư, SP, hàng hoá nhập trong kỳ )


Chúng ta thấy rằng, phương pháp này là khá đơn giản, dễ làm, chỉ cần tính toán một lần vào cuối kỳ. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm lớn là công tác kế toán dồn vào cuối kỳ ảnh hưởng đến tiến độ của các phần hành khác. Hơn nữa, phương pháp này chưa đáp ứng yêu cầu kịp thời của thông tin kế toán ngay tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ.

** Theo giá bình quân gia quyền sau mỗi lần nhập:

Sau mỗi lần nhập sản phẩm, vật tư, hàng hoá, kế toán phải xác định lại giá trị thực của hàng tồn kho và giá đơn vị bình quân. Căn cứ vào giá đơn vị bình quân và lượng xuất giữa 2 lần nhập kế tiếp để tính giá xuất theo công thức sau:

Giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập = Trị giá thực tế vật tư, SP, hàng hoá tồn kho sau mỗi lần nhập /Số lượngvật tư, SP, hàng hoá thực tế tồn kho sau mỗi lần nhập
-----------------------------------------------------------------------------------------
Phương pháp này có ưu điểm là khắc phục được những hạn chế của phương pháp trên nhưng việc tính toán phức tạp, nhiều lần, tốn nhiều công sức. Do đặc điểm trên mà phương pháp này được áp dụng ở các doanh nghiệp có ít chủng loại hàng tồn kho, có lưu lượng nhập xuất ít.

** Theo giá bình quân gia quyền cuối kỳ trước: Dựa vào trị giá và số lượng hàng tồn kho cuối kỳ trước, kế toán tính giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước để tính giá xuất.

Giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước = Trị giá thực tế vật tư, SP, hàng hoá tồn kho cuối kỳ trước /Số lượng vật tư, SP,hàng hoá thực tế tồn kho cuối kỳ trước


Theo chúng tôi, phương pháp này có ưu điểm đơn giản, dễ tính toán nhưng trị giá hàng xuất không chịu ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả trong kỳ hiện tại. Vì vậy, phương pháp này làm cho chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh không sát với giá thực tế.
• Phương pháp nhập trước xuất trước(FIFO)

Phương pháp này áp dụng dựa trên giả định là hàng được mua trước hoặc sản xuất trước thì được xuất trước, và hàng còn lại cuối kỳ là hàng được mua hoặc sản xuất ở thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.

Phương pháp này giúp cho chúng ta có thể tính được ngay trị giá vốn hàng xuất kho từng lần xuất hàng, do vậy đảm bảo cung cấp số liệu kịp thời cho kế toán ghi chép các khâu tiếp theo cũng như cho quản lý. Trị giá vốn của hàng tồn kho sẽ tương đối sát với giá thị trường của mặt hàng đó. Vì vậy chỉ tiêu hàng tồn kho trên báo cáo kế toán có ý nghĩa thực tế hơn.

Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểmlà làm cho doanh thu hiện tại không phù hợp với những khoản chi phí hiện tại. Theo phương pháp này, doanh thu hiện tại được tạo ra bởi giá trị sản phẩm, vật tư, hàng hoá đã có được từ cách đó rất lâu. Đồng thời nếu số lượng chủng loại mặt hàng nhiều, phát sinh nhập xuất liên tục dẫn đến những chi phí cho việc hạch toán cũng như khối lượng công việc sẽ tăng lên rất nhiều.

dapghe:
-----------------------------------------------------------------------------------------
*Phương pháp nhập sau - xuất trước(LIFO)

Phương pháp này giả định là hàng được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là những hàng được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ.

Như vậy với phương pháp này chi phí của lần mua gần nhất sẽ tương đối sát với trị giá vốn của hàng thay thế. Việc thực hiện phương pháp này sẽ đảm bảo được yêu cầu của nguyên tắc phù hợp trong kế toán. Tuy nhiên, trị giá vốn của hàng tồn kho cuối kỳ có thể không sát với giá thị trường của hàng thay thế.

*Phương pháp giá hạch toán.

Đối với các doanh nghiệp có nhiều loại hàng, giá cả thường xuyên biến động, nghiệp vụ nhập xuất hàng diễn ra thường xuyên thì việc hạch toán theo giá thực tế trở nên phức tạp, tốn nhiều công sức và nhiều khi không thực hiện được. Do đó việc hạch toán hàng ngày nên sử dụng giá hạch toán.

Giá hạch toán là loại giá ổn định, doanh nghiệp có thể sử dụng trong thời gian dài để hạch toán nhập, xuất, tồn kho hàng trong khi chưa tính được giá thực tế của nó. Doanh nghiệp có thể sử dụng giá kế hoạch hoặc giá mua hàng hoá ở một thời điểm nào đó hay giá hàng bình quân tháng trước để làm giá hạch toán. Sử dụng giá hạch toán để giảm bớt khối lượng cho công tác kế toán nhập xuất hàng hàng ngày nhưng cuối tháng phải tính chuyển giá hạch toán của hàng xuất, tồn kho theo giá thực tế. Việc tính chuyển dựa trên cơ sở hệ số giữa giá thực tế và giá hạch toán.

Hệ số giá vật tư, SP, hàng hoá = (Trị giá thực tế vật tư, SP, hàng hoá tồn kho đầu kỳ + Trị giá thực tế vật tư, SP, hàng hoá nhập kho trong kỳ)/(Trị giá hạch toán vật tư, SP, hàng hoá tồn kho đầu kỳ + Trị giá hạch toán vật tư, SP, hàng hoá nhập kho trong kỳ )


Sau khi tính hệ số giá, kế toán tiến hành điều chỉnh giá hạch toán trong kỳ thành giá thực tế vào cuối kỳ kế toán.

Trị giá thực tế hàng xuất trong kỳ = Hệ số giá x Trị giá hạch toán của hàng xuất kho trong kỳ


Trị giá thực tế hàng tồn kho cuối kỳ = Hệ số giá x Trị giá hạch toán của hàng tồn kho cuối kỳ


Phương pháp hệ số giá cho phép kết hợp chặt chẽ hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp về hàng trong công tác tính giá, nên công việc tính giá được tiến hành nhanh chóng do chỉ phải theo dõi biến động của hàng với cùng một mức giá và đến cuối kỳ mới điều chỉnh và không bị phụ thuộc vào số lượng danh điểm hàng , số lần nhập, xuất của mỗi loại nhiều hay ít.

Phương pháp này phù hợp với các doanh nghiệp có nhiều chủng loại hàng và đội ngũ kế toán có trình độ chuyên môn cao.

Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, giá thực tế của hàng nhập kho luôn biến động phụ thuộc vào các yếu tố thị trường, các chính sách điều tiết vi mô và vĩ mô, cho nên việc sử dụng giá hạch toán cố định trong suốt kỳ kế toán là không còn phù hợp nữa.

Các phương pháp khác nhau có ảnh hưởng khác nhau tới các chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính. Phương pháp FIFO cho kết quả số liệu trong bảng cân đối kế toán là sát nhất với giá phí hiện tại so với các phương pháp tính giá hàng tồn kho khác vì giá của các lần mua sau cũng được phản ánh trong giá hàng tồn kho cuối kỳ còn trị giá vốn hàng xuất là giá cũ từ trước, phương pháp FIFO giả sử rằng giá của hàng tồn kho đầu kỳ theo giá nhập trước và giá các lần nhập trước trở thành trị giá vốn hàng xuất (hoặc thành chi phí). Khi giá cả tăng lên, phương pháp FIFO thường dẫn đến lợi nhuận cao nhất trong 3 phương pháp FIFO, LIFO và bình quân, còn khi giá cả giảm xuống thì phương pháp FIFO cho lợi nhuận là thấp nhất trong 3 phương pháp tính giá. Phương pháp FIFO là một phương pháp tính giá theo hướng bảng cân đối kế toán, vì nó đưa ra sự dự đoán chính xác nhất giá trị hiện tại của hàng tồn kho trong những kỳ giá cả thay đổi. Trong những kỳ giá tăng lên, phương pháp FIFO sẽ cho kết quả thuế cao hơn bất kỳ phương pháp nào trong khi những kỳ giá cả giảm sút thì FIFO giúp cho doanh nghiệp giảm đi gánh nặng thuế. Song một ưu điểm lớn của FIFO là phương pháp này không phải là đối tượng cho những qui định và những yêu cầu của các điều khoản ràng buộc thuế như phương pháp LIFO phải gánh chịu.
 
Sửa lần cuối:
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Trong phương pháp LIFO, thông thường thì số hàng tồn cuối kỳ gồm giá gốc của những mặt hàng mua từ cũ . Khi giá cả tăng lên, phương pháp LIFO cho số liệu trên bảng cân đối kế toán thường thấp hơn so với giá phí hiện tại. LIFO thường cho kết quả lợi nhuận thấp nhất trong trường hợp giá cả tăng vì giá vốn trong phương pháp này là cao nhất và cho lợi nhuận cao nhất khi giá cả giảm (vì giá vốn là thấp nhất). Phương pháp LIFO thường dẫn đến sự giao động thấp nhất về lợi nhuận báo cáo ở những nơi mà giá bán có xu hướng thay đổi cùng với giá hiện tại của các mặt hàng tồn kho thay đổi.

Phương pháp LIFO tạo ra sự ảnh hưởng khác nhau tới báo cáo tài chính do phương pháp này thường phản ánh số liệu giá vốn hàng bán theo giá phí hiện hành, phương pháp này cũng có nhiều thuận lợi thiết thực về thuế thu nhập doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp sử dụng phương pháp LIFO trong việc tính toán thuế thu nhập doanh nghiệp thì phương pháp này cũng phải được sử dụng trong các báo cáo tài chính cho các cổ đông. Chẳng hạn, vào cuối những năm 20 của thế kỷ 20, nhiều doanh nghiệp kể cả Dupont, General Motors, Kodak và Sears đã chuyển từ phương pháp FIFO sang phương pháp LIFO khi mà chỉ số giá cả tăng mạnh trước đây thì việc chuyển từ FIFO sang LIFO đã đạt được kết quả trong việc chi trả tiền thuế thu nhập thấp hơn một cách đáng kể. Như hãng Dupont và General Motor chuyển từ phương pháp FIFO sang phương pháp LIFO, mỗi doanh nghiệp đã chi trả tiền thuế thu nhập thấp hơn khoảng 150 triệu USD, cùng lúc đó các doanh nghiệp này đã báo cáo thu nhập thuần cho các cổ đông thấp hơn so với thu nhập thuần mà có được do hãng vẫn sử dụng phương pháp FIFO báo cáo tài chính cho các cổ đông.

Phương pháp bình quân trong tính giá hàng tồn kho là phương pháp tạo ra sự quân bình ở giữa hai phương pháp LIFO và FIFO trong việc ảnh hưởng tới bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh. Phương pháp này không đưa ra một dự kiến về thông tin giá phí hiện thời trên cả báo cáo tài chính và báo cáo kết quả kinh doanh, nó cũng không giúp việc giảm thiểu gánh nặng thuế cũng như không phát sinh những kết quả nặng nề nhất khi có những thay đổi khác nhau.

Tóm lại, sự khác nhau trong việc xác định giá vốn hàng bán và trị giá hàng tồn kho cuối kỳ theo các phương pháp tính giá khác nhau liên quan tới việc thay đổi giá phí mua vào của các mặt hàng. Việc sử dụng giá cũ cho xác định trị giá hàng tồn cuối kỳ trong phương pháp LIFO hoặc xác định giá vốn hàng bán theo giá cũ hơn trong phương pháp FIFO sẽ chịu ít ảnh hưởng nếu giá cả ổn định. Khi chỉ số giá cả tăng lên hoặc giảm xuống sẽ ảnh hưởng tới việc sử dụng đơn giá cũ hoặc mới do thay đổi giá dẫn đến sự khác biệt lớn về giá vốn hàng bán và bị giá tồn cuối kỳ giữa hai phương pháp LIFO và FIFO. Sự khác biệt về giá vốn hàng bán và trị giá hàng tồn cuối kỳ cũng liên quan tới tỷ lệ vòng quay của hàng tồn kho. Nhìn chung xu hướng giá cả và các mục đích nhấn mạnh chú trọng tới là điều quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp tính giá hàng tồn kho, các nhân tố khác cần xem xét tính những rủi ro của sự giảm thiểu hàng tồn kho cuối kỳ trong phương pháp LIFO; dòng tiền và sự duy trì nguồn tài trợ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp tính giá xuất song chưa được đề cập một cách thấu đáo ở đây.

Trong một thị trường ổn định, khi giá không thay đổi thì việc lựa chọn một phương pháp tính giá hàng tồn kho nào không quan trọng lắm vì tất cả các phương pháp tính giá đều cho cùng một kết quả khi giá không đổi từ kỳ này sang kỳ khác. Nhưng trong một thị trường không ổn định, giá cả lên xuống thất thường thì mỗi phương pháp có thể cho một kết quả khác. Cả 5 phương pháp trên đều được thừa nhận, song mỗi phương pháp tính giá hàng tồn kho thường có những ảnh hưởng nhất định trên báo cáo tài chính, vì vậy việc lựa chọn phương pháp nào phải được công khai trên các báo cáo và phải sử dụng nhất quán trong niên độ kế toán, không thay đổi tuỳ tiện để đảm bảo nguyên tắc nhất quán trong kế toán.Trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc chung của kế toán và tuỳ theo điều kiện cụ thể về số lượng hàng hoá, số lần nhập xuất, trình độ nhân viên kế toán, điều kiện kho bãi mà doanh nghiệp lựa chọn phương pháp tính giá hàng hoá xuất kho cho hợp lý và hiệu quả.
-----------------------------------------------------------------------------------------
* Phương pháp nhập trước xuất trước(FIFO)

Phương pháp này áp dụng dựa trên giả định là hàng được mua trước hoặc sản xuất trước thì được xuất trước, và hàng còn lại cuối kỳ là hàng được mua hoặc sản xuất ở thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.

Phương pháp này giúp cho chúng ta có thể tính được ngay trị giá vốn hàng xuất kho từng lần xuất hàng, do vậy đảm bảo cung cấp số liệu kịp thời cho kế toán ghi chép các khâu tiếp theo cũng như cho quản lý. Trị giá vốn của hàng tồn kho sẽ tương đối sát với giá thị trường của mặt hàng đó. Vì vậy chỉ tiêu hàng tồn kho trên báo cáo kế toán có ý nghĩa thực tế hơn.

Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểmlà làm cho doanh thu hiện tại không phù hợp với những khoản chi phí hiện tại. Theo phương pháp này, doanh thu hiện tại được tạo ra bởi giá trị sản phẩm, vật tư, hàng hoá đã có được từ cách đó rất lâu. Đồng thời nếu số lượng chủng loại mặt hàng nhiều, phát sinh nhập xuất liên tục dẫn đến những chi phí cho việc hạch toán cũng như khối lượng công việc sẽ tăng lên rất nhiều.

*Phương pháp nhập sau - xuất trước(LIFO)

Phương pháp này giả định là hàng được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là những hàng được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ.

Như vậy với phương pháp này chi phí của lần mua gần nhất sẽ tương đối sát với trị giá vốn của hàng thay thế. Việc thực hiện phương pháp này sẽ đảm bảo được yêu cầu của nguyên tắc phù hợp trong kế toán. Tuy nhiên, trị giá vốn của hàng tồn kho cuối kỳ có thể không sát với giá thị trường của hàng thay thế.

*Phương pháp giá hạch toán.

Đối với các doanh nghiệp có nhiều loại hàng, giá cả thường xuyên biến động, nghiệp vụ nhập xuất hàng diễn ra thường xuyên thì việc hạch toán theo giá thực tế trở nên phức tạp, tốn nhiều công sức và nhiều khi không thực hiện được. Do đó việc hạch toán hàng ngày nên sử dụng giá hạch toán.

Giá hạch toán là loại giá ổn định, doanh nghiệp có thể sử dụng trong thời gian dài để hạch toán nhập, xuất, tồn kho hàng trong khi chưa tính được giá thực tế của nó. Doanh nghiệp có thể sử dụng giá kế hoạch hoặc giá mua hàng hoá ở một thời điểm nào đó hay giá hàng bình quân tháng trước để làm giá hạch toán. Sử dụng giá hạch toán để giảm bớt khối lượng cho công tác kế toán nhập xuất hàng hàng ngày nhưng cuối tháng phải tính chuyển giá hạch toán của hàng xuất, tồn kho theo giá thực tế. Việc tính chuyển dựa trên cơ sở hệ số giữa giá thực tế và giá hạch toán.

Hệ số giá vật tư, SP, hàng hoá = (Trị giá thực tế vật tư, SP, hàng hoá tồn kho đầu kỳ + Trị giá thực tế vật tư, SP, hàng hoá nhập kho trong kỳ)/(Trị giá hạch toán vật tư, SP, hàng hoá tồn kho đầu kỳ + Trị giá hạch toán vật tư, SP, hàng hoá nhập kho trong kỳ )


Sau khi tính hệ số giá, kế toán tiến hành điều chỉnh giá hạch toán trong kỳ thành giá thực tế vào cuối kỳ kế toán.

Trị giá thực tế hàng xuất trong kỳ = Hệ số giá x Trị giá hạch toán của hàng xuất kho trong kỳ


Trị giá thực tế hàng tồn kho cuối kỳ = Hệ số giá x Trị giá hạch toán của hàng tồn kho cuối kỳ


Phương pháp hệ số giá cho phép kết hợp chặt chẽ hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp về hàng trong công tác tính giá, nên công việc tính giá được tiến hành nhanh chóng do chỉ phải theo dõi biến động của hàng với cùng một mức giá và đến cuối kỳ mới điều chỉnh và không bị phụ thuộc vào số lượng danh điểm hàng , số lần nhập, xuất của mỗi loại nhiều hay ít.

Phương pháp này phù hợp với các doanh nghiệp có nhiều chủng loại hàng và đội ngũ kế toán có trình độ chuyên môn cao.

Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, giá thực tế của hàng nhập kho luôn biến động phụ thuộc vào các yếu tố thị trường, các chính sách điều tiết vi mô và vĩ mô, cho nên việc sử dụng giá hạch toán cố định trong suốt kỳ kế toán là không còn phù hợp nữa.

Các phương pháp khác nhau có ảnh hưởng khác nhau tới các chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính. Phương pháp FIFO cho kết quả số liệu trong bảng cân đối kế toán là sát nhất với giá phí hiện tại so với các phương pháp tính giá hàng tồn kho khác vì giá của các lần mua sau cũng được phản ánh trong giá hàng tồn kho cuối kỳ còn trị giá vốn hàng xuất là giá cũ từ trước, phương pháp FIFO giả sử rằng giá của hàng tồn kho đầu kỳ theo giá nhập trước và giá các lần nhập trước trở thành trị giá vốn hàng xuất (hoặc thành chi phí). Khi giá cả tăng lên, phương pháp FIFO thường dẫn đến lợi nhuận cao nhất trong 3 phương pháp FIFO, LIFO và bình quân, còn khi giá cả giảm xuống thì phương pháp FIFO cho lợi nhuận là thấp nhất trong 3 phương pháp tính giá. Phương pháp FIFO là một phương pháp tính giá theo hướng bảng cân đối kế toán, vì nó đưa ra sự dự đoán chính xác nhất giá trị hiện tại của hàng tồn kho trong những kỳ giá cả thay đổi. Trong những kỳ giá tăng lên, phương pháp FIFO sẽ cho kết quả thuế cao hơn bất kỳ phương pháp nào trong khi những kỳ giá cả giảm sút thì FIFO giúp cho doanh nghiệp giảm đi gánh nặng thuế. Song một ưu điểm lớn của FIFO là phương pháp này không phải là đối tượng cho những qui định và những yêu cầu của các điều khoản ràng buộc thuế như phương pháp LIFO phải gánh chịu.
 
Sửa lần cuối:
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Trong phương pháp LIFO, thông thường thì số hàng tồn cuối kỳ gồm giá gốc của những mặt hàng mua từ cũ . Khi giá cả tăng lên, phương pháp LIFO cho số liệu trên bảng cân đối kế toán thường thấp hơn so với giá phí hiện tại. LIFO thường cho kết quả lợi nhuận thấp nhất trong trường hợp giá cả tăng vì giá vốn trong phương pháp này là cao nhất và cho lợi nhuận cao nhất khi giá cả giảm (vì giá vốn là thấp nhất). Phương pháp LIFO thường dẫn đến sự giao động thấp nhất về lợi nhuận báo cáo ở những nơi mà giá bán có xu hướng thay đổi cùng với giá hiện tại của các mặt hàng tồn kho thay đổi.

Phương pháp LIFO tạo ra sự ảnh hưởng khác nhau tới báo cáo tài chính do phương pháp này thường phản ánh số liệu giá vốn hàng bán theo giá phí hiện hành, phương pháp này cũng có nhiều thuận lợi thiết thực về thuế thu nhập doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp sử dụng phương pháp LIFO trong việc tính toán thuế thu nhập doanh nghiệp thì phương pháp này cũng phải được sử dụng trong các báo cáo tài chính cho các cổ đông. Chẳng hạn, vào cuối những năm 20 của thế kỷ 20, nhiều doanh nghiệp kể cả Dupont, General Motors, Kodak và Sears đã chuyển từ phương pháp FIFO sang phương pháp LIFO khi mà chỉ số giá cả tăng mạnh trước đây thì việc chuyển từ FIFO sang LIFO đã đạt được kết quả trong việc chi trả tiền thuế thu nhập thấp hơn một cách đáng kể. Như hãng Dupont và General Motor chuyển từ phương pháp FIFO sang phương pháp LIFO, mỗi doanh nghiệp đã chi trả tiền thuế thu nhập thấp hơn khoảng 150 triệu USD, cùng lúc đó các doanh nghiệp này đã báo cáo thu nhập thuần cho các cổ đông thấp hơn so với thu nhập thuần mà có được do hãng vẫn sử dụng phương pháp FIFO báo cáo tài chính cho các cổ đông.

Phương pháp bình quân trong tính giá hàng tồn kho là phương pháp tạo ra sự quân bình ở giữa hai phương pháp LIFO và FIFO trong việc ảnh hưởng tới bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh. Phương pháp này không đưa ra một dự kiến về thông tin giá phí hiện thời trên cả báo cáo tài chính và báo cáo kết quả kinh doanh, nó cũng không giúp việc giảm thiểu gánh nặng thuế cũng như không phát sinh những kết quả nặng nề nhất khi có những thay đổi khác nhau.

Tóm lại, sự khác nhau trong việc xác định giá vốn hàng bán và trị giá hàng tồn kho cuối kỳ theo các phương pháp tính giá khác nhau liên quan tới việc thay đổi giá phí mua vào của các mặt hàng. Việc sử dụng giá cũ cho xác định trị giá hàng tồn cuối kỳ trong phương pháp LIFO hoặc xác định giá vốn hàng bán theo giá cũ hơn trong phương pháp FIFO sẽ chịu ít ảnh hưởng nếu giá cả ổn định. Khi chỉ số giá cả tăng lên hoặc giảm xuống sẽ ảnh hưởng tới việc sử dụng đơn giá cũ hoặc mới do thay đổi giá dẫn đến sự khác biệt lớn về giá vốn hàng bán và bị giá tồn cuối kỳ giữa hai phương pháp LIFO và FIFO. Sự khác biệt về giá vốn hàng bán và trị giá hàng tồn cuối kỳ cũng liên quan tới tỷ lệ vòng quay của hàng tồn kho. Nhìn chung xu hướng giá cả và các mục đích nhấn mạnh chú trọng tới là điều quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp tính giá hàng tồn kho, các nhân tố khác cần xem xét tính những rủi ro của sự giảm thiểu hàng tồn kho cuối kỳ trong phương pháp LIFO; dòng tiền và sự duy trì nguồn tài trợ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp tính giá xuất song chưa được đề cập một cách thấu đáo ở đây.

Trong một thị trường ổn định, khi giá không thay đổi thì việc lựa chọn một phương pháp tính giá hàng tồn kho nào không quan trọng lắm vì tất cả các phương pháp tính giá đều cho cùng một kết quả khi giá không đổi từ kỳ này sang kỳ khác. Nhưng trong một thị trường không ổn định, giá cả lên xuống thất thường thì mỗi phương pháp có thể cho một kết quả khác. Cả 5 phương pháp trên đều được thừa nhận, song mỗi phương pháp tính giá hàng tồn kho thường có những ảnh hưởng nhất định trên báo cáo tài chính, vì vậy việc lựa chọn phương pháp nào phải được công khai trên các báo cáo và phải sử dụng nhất quán trong niên độ kế toán, không thay đổi tuỳ tiện để đảm bảo nguyên tắc nhất quán trong kế toán.Trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc chung của kế toán và tuỳ theo điều kiện cụ thể về số lượng hàng hoá, số lần nhập xuất, trình độ nhân viên kế toán, điều kiện kho bãi mà doanh nghiệp lựa chọn phương pháp tính giá hàng hoá xuất kho cho hợp lý và hiệu quả.
đó là bài viết đã được đăng rồi mà.mọi người đọc lại đi rồi sẽ thấy
Các phương pháp khác nhau có ảnh hưởng khác nhau tới các chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính. Phương pháp FIFO cho kết quả số liệu trong bảng cân đối kế toán là sát nhất với giá phí hiện tại so với các phương pháp tính giá hàng tồn kho khác vì giá của các lần mua sau cũng được phản ánh trong giá hàng tồn kho cuối kỳ còn trị giá vốn hàng xuất là giá cũ từ trước, phương pháp FIFO giả sử rằng giá của hàng tồn kho đầu kỳ theo giá nhập trước và giá các lần nhập trước trở thành trị giá vốn hàng xuất (hoặc thành chi phí). Khi giá cả tăng lên, phương pháp FIFO thường dẫn đến lợi nhuận cao nhất trong 3 phương pháp FIFO, LIFO và bình quân, còn khi giá cả giảm xuống thì phương pháp FIFO cho lợi nhuận là thấp nhất trong 3 phương pháp tính giá. Phương pháp FIFO là một phương pháp tính giá theo hướng bảng cân đối kế toán, vì nó đưa ra sự dự đoán chính xác nhất giá trị hiện tại của hàng tồn kho trong những kỳ giá cả thay đổi. Trong những kỳ giá tăng lên, phương pháp FIFO sẽ cho kết quả thuế cao hơn bất kỳ phương pháp nào trong khi những kỳ giá cả giảm sút thì FIFO giúp cho doanh nghiệp giảm đi gánh nặng thuế. Song một ưu điểm lớn của FIFO là phương pháp này không phải là đối tượng cho những qui định và những yêu cầu của các điều khoản ràng buộc thuế như phương pháp LIFO phải gánh chịu.

Trong phương pháp LIFO, thông thường thì số hàng tồn cuối kỳ gồm giá gốc của những mặt hàng mua từ cũ . Khi giá cả tăng lên, phương pháp LIFO cho số liệu trên bảng cân đối kế toán thường thấp hơn so với giá phí hiện tại. LIFO thường cho kết quả lợi nhuận thấp nhất trong trường hợp giá cả tăng vì giá vốn trong phương pháp này là cao nhất và cho lợi nhuận cao nhất khi giá cả giảm (vì giá vốn là thấp nhất). Phương pháp LIFO thường dẫn đến sự giao động thấp nhất về lợi nhuận báo cáo ở những nơi mà giá bán có xu hướng thay đổi cùng với giá hiện tại của các mặt hàng tồn kho thay đổi.

Phương pháp LIFO tạo ra sự ảnh hưởng khác nhau tới báo cáo tài chính do phương pháp này thường phản ánh số liệu giá vốn hàng bán theo giá phí hiện hành, phương pháp này cũng có nhiều thuận lợi thiết thực về thuế thu nhập doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp sử dụng phương pháp LIFO trong việc tính toán thuế thu nhập doanh nghiệp thì phương pháp này cũng phải được sử dụng trong các báo cáo tài chính cho các cổ đông. Chẳng hạn, vào cuối những năm 20 của thế kỷ 20, nhiều doanh nghiệp kể cả Dupont, General Motors, Kodak và Sears đã chuyển từ phương pháp FIFO sang phương pháp LIFO khi mà chỉ số giá cả tăng mạnh trước đây thì việc chuyển từ FIFO sang LIFO đã đạt được kết quả trong việc chi trả tiền thuế thu nhập thấp hơn một cách đáng kể. Như hãng Dupont và General Motor chuyển từ phương pháp FIFO sang phương pháp LIFO, mỗi doanh nghiệp đã chi trả tiền thuế thu nhập thấp hơn khoảng 150 triệu USD, cùng lúc đó các doanh nghiệp này đã báo cáo thu nhập thuần cho các cổ đông thấp hơn so với thu nhập thuần mà có được do hãng vẫn sử dụng phương pháp FIFO báo cáo tài chính cho các cổ đông.

Phương pháp bình quân trong tính giá hàng tồn kho là phương pháp tạo ra sự quân bình ở giữa hai phương pháp LIFO và FIFO trong việc ảnh hưởng tới bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh. Phương pháp này không đưa ra một dự kiến về thông tin giá phí hiện thời trên cả báo cáo tài chính và báo cáo kết quả kinh doanh, nó cũng không giúp việc giảm thiểu gánh nặng thuế cũng như không phát sinh những kết quả nặng nề nhất khi có những thay đổi khác nhau.

Tóm lại, sự khác nhau trong việc xác định giá vốn hàng bán và trị giá hàng tồn kho cuối kỳ theo các phương pháp tính giá khác nhau liên quan tới việc thay đổi giá phí mua vào của các mặt hàng. Việc sử dụng giá cũ cho xác định trị giá hàng tồn cuối kỳ trong phương pháp LIFO hoặc xác định giá vốn hàng bán theo giá cũ hơn trong phương pháp FIFO sẽ chịu ít ảnh hưởng nếu giá cả ổn định. Khi chỉ số giá cả tăng lên hoặc giảm xuống sẽ ảnh hưởng tới việc sử dụng đơn giá cũ hoặc mới do thay đổi giá dẫn đến sự khác biệt lớn về giá vốn hàng bán và bị giá tồn cuối kỳ giữa hai phương pháp LIFO và FIFO. Sự khác biệt về giá vốn hàng bán và trị giá hàng tồn cuối kỳ cũng liên quan tới tỷ lệ vòng quay của hàng tồn kho. Nhìn chung xu hướng giá cả và các mục đích nhấn mạnh chú trọng tới là điều quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp tính giá hàng tồn kho, các nhân tố khác cần xem xét tính những rủi ro của sự giảm thiểu hàng tồn kho cuối kỳ trong phương pháp LIFO; dòng tiền và sự duy trì nguồn tài trợ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp tính giá xuất song chưa được đề cập một cách thấu đáo ở đây.

Trong một thị trường ổn định, khi giá không thay đổi thì việc lựa chọn một phương pháp tính giá hàng tồn kho nào không quan trọng lắm vì tất cả các phương pháp tính giá đều cho cùng một kết quả khi giá không đổi từ kỳ này sang kỳ khác. Nhưng trong một thị trường không ổn định, giá cả lên xuống thất thường thì mỗi phương pháp có thể cho một kết quả khác. Cả 5 phương pháp trên đều được thừa nhận, song mỗi phương pháp tính giá hàng tồn kho thường có những ảnh hưởng nhất định trên báo cáo tài chính, vì vậy việc lựa chọn phương pháp nào phải được công khai trên các báo cáo và phải sử dụng nhất quán trong niên độ kế toán, không thay đổi tuỳ tiện để đảm bảo nguyên tắc nhất quán trong kế toán.Trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc chung của kế toán và tuỳ theo điều kiện cụ thể về số lượng hàng hoá, số lần nhập xuất, trình độ nhân viên kế toán, điều kiện kho bãi mà doanh nghiệp lựa chọn phương pháp tính giá hàng hoá xuất kho cho hợp lý và hiệu quả.
đó là bài viết đã được đăng rồi mà.mọi người đọc lại đi rồi sẽ thấy:
 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Bài viết dài thì đọc làm gì?
Bài viết đó chỉ dành cho sinh viên trả bài - trả nợ đèn sách mà thôi.
Dài dòng nhưng có quá nhiều điều sai.
Cái sai quan trọng nhất là người ta chỉ chia ra thành 4 PP đánh giá hàng tồn kho chứ không phải 5.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Theo minh thi: để nhận diện được thì phải phân biệt được hàng hóa theo lô và để sử dụng PP Thực tế đích danh theo tôi còn cần phải xác định được giá chính xác khi nhập kho (tôi nói điều này vì có 1 số công ty khi nhập kho họ nhập theo 1 đơn giá tạm (có thề nói như vậy) vì sau đó họ lại điều chỉnh giá nữa sau thời điểm nhập kho. Theo tôi như vậy thì không đúng với ý nghĩa của PP này).Những công ty có nhiều mặt hàng thì khó sử dụng PP này vì hàng hóa nhiều thì khó quản lý hàng theo lô, vì khi nhập hay xuất bắt bạn phải xác định được số lô của hàng hóa để xác định giá vốn, mà bạn không quản lý hàng hóa theo lô được thì không thể sử dụng PP Thực tế đích danh.
Nếu bạn không sử dụng PP Thực tế đích danh thì bạn có thể chọn 1 trong 3 PP còn lại, tuy nhiên phải đăng ký với Cục Thuế quản lý bạn hoặc phải xin thay đồi PP nhập xuất Kho với họ.
 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Theo minh thi: để nhận diện được thì phải phân biệt được hàng hóa theo lô và để sử dụng PP Thực tế đích danh theo tôi còn cần phải xác định được giá chính xác khi nhập kho (tôi nói điều này vì có 1 số công ty khi nhập kho họ nhập theo 1 đơn giá tạm (có thề nói như vậy) vì sau đó họ lại điều chỉnh giá nữa sau thời điểm nhập kho. Theo tôi như vậy thì không đúng với ý nghĩa của PP này).Những công ty có nhiều mặt hàng thì khó sử dụng PP này vì hàng hóa nhiều thì khó quản lý hàng theo lô, vì khi nhập hay xuất bắt bạn phải xác định được số lô của hàng hóa để xác định giá vốn, mà bạn không quản lý hàng hóa theo lô được thì không thể sử dụng PP Thực tế đích danh.
Nếu bạn không sử dụng PP Thực tế đích danh thì bạn có thể chọn 1 trong 3 PP còn lại, tuy nhiên phải đăng ký với Cục Thuế quản lý bạn hoặc phải xin thay đồi PP nhập xuất Kho với họ.


Thực tế đích danh không hề phức tạp trong thao tác hơn các PP khác.

Thậm chí là đối với người khả năng tính toán kém lại dễ làm hơn.

Nguyên nhân bạn hiểu sai chữ "thực tế" là vì bạn tuởng rằng các lô hàng phải để riêng biệt nhau và quýêt định giá xuất (xuất lô hàng nào) là thuộc thẩm quỳên của Thủ kho.

Thực ra, các lô hàng có cùng phẩm chất, quy cách nên Thủ kho vẫn để lẫn lộn.
Đìều này vẫn diễn ra y hệt như với PP LIFO, FIFO hay bình quân.

Việc xác định giá xuất kho là việc của kế tóan, không phải việc của Thủ kho.
Và đìều này cũng vẫn diễn ra y hệt như với PP LIFO, FIFO hay bình quân.

Chỉ có điều khác nhau: kế toán không có nhiều chọn lựa nếu theo PP LIFO hay FIFO (và dĩ nhiên là cả nếu theo Bình quân), nhưng với Thực tế đích danh thì tự do hơn.
 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Cám ơn bạn đã nhiệt tình tham gia chủ đề này và chỉ ra chỗ sai của mình!
Tuy nhiên theo mình, điều bạn nói chỉ đúng khi bạn xem mỗi bộ phận trong 1 đơn vị(Công ty) là mỗi cổ máy độc lập. Còn nếu xem là 1 thể thống nhất nghĩa là bộ phận này làm đều tác động đến bộ phận khác thì sai rồi.
theo tôi, không phải đơn thuần người ta đưa ra các PP xuất kho như vậy chỉ vì anh kế toán còn anh Kho muốn làm gì thì làm, mà còn là cách quản lý mà nói đến quản lý thì mỗi người mỗi cách khác nhau, do vậy bạn đúng theo cách quản lý của bạn. và mình đã sai theo cách của bạn.

 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Cám ơn bạn đã nhiệt tình tham gia chủ đề này và chỉ ra chỗ sai của mình!
Tuy nhiên theo mình, điều bạn nói chỉ đúng khi bạn xem mỗi bộ phận trong 1 đơn vị(Công ty) là mỗi cổ máy độc lập. Còn nếu xem là 1 thể thống nhất nghĩa là bộ phận này làm đều tác động đến bộ phận khác thì sai rồi.
theo tôi, không phải đơn thuần người ta đưa ra các PP xuất kho như vậy chỉ vì anh kế toán còn anh Kho muốn làm gì thì làm, mà còn là cách quản lý mà nói đến quản lý thì mỗi người mỗi cách khác nhau, do vậy bạn đúng theo cách quản lý của bạn. và mình đã sai theo cách của bạn.


Không phải thế.
Tôi không nói là trong quản lý Thủ kho sẽ luôn luôn để lẫn lộn các lô hàng có cùng quy cách, phẩm chất (nhưng khác nhau về giá).
Vấn đề đó thuộc về quản lý kho.

Khi nói đến 4 PP kế tóan đánh giá hàng tồn kho, hẳn nhiên đó là các phạm trù kế tóan.

CHẳng hạn, khi mua rau muống nhập kho và khi xuất kho Thủ kho thường cố gắng xuất lô hàng nhập trước xuất trước. Chỉ khi gặp người quen thì Thủ kho mới xuất cho bó còn tươi rói....

Nhưng Phòng kế tóan vẫn áp dụng PP bình quân để báo cáo tài chánh.

2 việc là khác nhau.
 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Cám ơn bạn đã nhiệt tình tham gia!
Bạn đã dẫn chứng: "CHẳng hạn, khi mua rau muống nhập kho và khi xuất kho Thủ kho thường cố gắng xuất lô hàng nhập trước xuất trước. Chỉ khi gặp người quen thì Thủ kho mới xuất cho bó còn tươi rói....Nhưng Phòng kế tóan vẫn áp dụng PP bình quân để báo cáo tài chánh."
Theo mình khi phòng Kế Toán đã sử dụng PP Bình quân thì Thủ kho được phép muốn xuất hàng nhập trước hay nhập sau đều được (nếu không có qui định khác), còn nếu có qui định phải nhập trước xuất trước (Kế Toán vẫn sử dụng PP Bình quân) thì "thỉnh thoảng" vẫn có thủ kho như bạn nói và tôi sẽ bỏ qua vì giá trị bó rau nhỏ còn mặt hàng có giá trị lớn thì tôi đuổi ngay (vì đã có qui định).
Giờ quay lại vấn đế chính: mình xin hỏi nếu bạn chọn PP thực tế đích danh thì thẻ kho ai làm? và như thế nào? Nói đến thẻ kho thì chắc chắn là Thủ Kho làm, và có phải chỉ quan tâm đến mã hàng và qui cách như thẻ kho thông thường (PP Bình quân) không? hay phải theo dõi theo mã hàng, qui cách và lô nữa?
Bảng báo cáo nhập xuất tồn bạn làm như thế nào?
Sổ chi tiết vật tư, hàng hóa bạn làm ra sao?
Bạn làm như thông thường(PP Bình Quân) hay chỉ quan tâm mã hàng, qui cách và giá chứ không phải lô? hay Mã hàng, qui cách và lô?
Tất cả các sổ sách trên bạn muốn đối chiếu, kiểm tra thì cơ sở nào giúp bạn làm điều đó?
Để có con số chính xác thì có phải Kế toán và thủ kho cùng đối chiếu với nhau không? Vậy kế toán theo dõi theo từng lô mà thủ kho thì không thử hỏi họ đối chiếu ra sao? và khi sếp hỏi kế toán mặt hàng A ở lô hàng số x còn bao nhiêu xong, ông xuống hỏi thủ kho để kiểm tra chắc chăn đúng không thì thủ kho mở thẻ kho ra xem hay bảo đợi em đi đếm đã? Nếu số của 2 vị khác nhau thì ai làm đúng đúng ai làm sai? Hay cả 2 đều đúng?
Cám ơn bạn đã giúp mình nhớ ra, nếu làm theo phương pháp này thì ngoài chuyện kho bãi còn phải nói đến sổ sách, thẻ kho,. . . nhiều hơn 3 phương pháp kia rất nhiều nên nếu mặt hàng nhiều lên thì tôi thấy thật kinh khủng về số sách và không biết thủ kho có đủ thời gian ghi thẻ kho không nữa.
 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Trường hợp bạn cho Thủ Kho thôi việc vì xuất bó rau muống không đúng quy định thì rất rõ ràng nguyên nhân là vi phạm quy định về bảo quản hàng chứ không phải là vi phạm quy định về phương pháp đánh giá hàng tồn kho.
Với bất kỳ PP đánh giá hàng tồn kho nào thì Thủ Kho cũng vẫn bị đuổi như thường.


Thẻ kho của Thủ Kho chỉ ghi số lượng chứ không ghi đơn giá.
Thẻ kho của kế toán vật tư thì còn gọi là Thẻ (hoặc Sổ) Chỉ Tiết Vật Tư.
Khi đối chíêu Thủ Kho và Kế Tóan Vtư thì chỉ cần đối chiếu số lượng.
Khi đối chiếu Kế tóan vật tư với Kế toán tổng hợp thì đối chiếu số tìền.


Đối với tất cả các PP thì kế tóan không cần chính xác rằng lô hàng x đó thực tế là còn bao nhiêu trong kho.

Trường hợp sếp muốn biết điều đó thì kế tóan phải xem mỗi lô hàng là 1 mã hàng riêng biệt. Thủ kho cũng thế.
Điều đó dẫn đến việc quản lý buộc phải ghi nhận mã lô hàng + quy cách trên mọi chứng từ.
Và vì ghi nhận riêng biệt rõ ràng như thế nên khi lên thẻ kho cũng phải là các thẻ kho riêng biệt nhau cho từng lô.
Và cả trong kho Thủ Kho phải xếp hàng riêng biệt nhau theo lô.


Thực tế không ai làm như thế.
Nghĩa là 4 PP đánh giá hàng tồn kho không phải phản ảnh về vấn đề này.

---------

Một cái mà bạn rất dễ thấy là:
Theo quy định, DN chỉ được áp dụng 1 trong 4 PP đánh giá hàng tồn kho cho tất cả kho hàng.
Mà 1 DN thì có thể cùng lúc kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau.
Giả sử DN vừa kinh doanh rau muống (FIFO là thích hợp nhất) và thép (giá đang giảm nên người ta thích LIFO hơn), nhưng DN phải áp dụng 1 PP đánh giá hàng tồn kho chung cho tất cả trong suốt 1 năm.
 
Ðề: giá xuất kho-thực tế đích danh!

Tôi đồng ý với phần đầu cách trả lời của bạn, còn phần sau rất tiếc là hiện nay vẫn có 1 số công ty thực hiện (theo tôi biết) chứ không phải là "Thực tế không ai làm như thế.”(như bạn nói). Thực ra tôi chưa từng học(kế toán) cũng như làm theo PP Thực Tế Đích Danh bao giờ mà chỉ thấy họ làm và tìm hiểu. Nếu bạn có tài liệu nào nói về PP này thì cho mình xin hoặc chỉ mình để tìm đọc.
Cám ơn bạn!
 

CẨM NANG KẾ TOÁN TRƯỞNG


Liên hệ: 090.6969.247

KÊNH YOUTUBE DKT

Kỹ thuật giải trình thanh tra BHXH

Đăng ký kênh nhé cả nhà

SÁCH QUYẾT TOÁN THUẾ


Liên hệ: 090.6969.247

Top