Đề cương giới thiệu thuế TNDN.

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.

Voi Còi

Còi Voi - Coi Vòi
Thành viên BQT
Hội viên mới
Để các bạn có cái nhìn rõ hơn trong việc sửa đổi của Luật thuế TNDN tôi xin post lên đây đề cương giới thiệu Luật thuế TNDN cho mọi người tham khảo:

(Tài liệu được biên soạn bởi Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật)

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP (SỬA ĐỔI)

Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 để thay thế cho Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (1997). Qua tổng kết, đánh giá 4 năm thực hiện Luật cho thấy: Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành đã đạt được mục tiêu đề ra, góp phần quan trọng cải thiện môi trường đầu tư, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Cụ thể:

- Thứ nhất, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã có tác động tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư:
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành đã bỏ thu thuế bổ sung và hạ mức thuế từ 32% xuống 28% đối với doanh nghiệp trong nước; bãi bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (3%, 5%, 7%) đối với nhà đầu tư nước ngoài để chuyển từ mức thuế thu nhập doanh nghiệp 25% sang áp dụng chung mức thuế 28% như các doanh nghiệp trong nước. Việc điều chỉnh giảm mức thuế đối với doanh nghiệp trong nước không chỉ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp mới thành lập mà còn tạo thêm tiềm lực tài chính cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị, bổ sung vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Theo số liệu thống kê năm 2006, chỉ tính riêng 45 Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước, vốn kinh doanh đã được tích luỹ, bổ sung thêm gần 5.300 tỷ đồng, quỹ đầu tư phát triển tăng gần 13.000 tỷ đồng và quỹ dự phòng tài chính để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh tăng khoảng 2.000 tỷ đồng.

Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành cũng quy định chính sách ưu đãi trên cơ sở chọn mức ưu đãi thuế cao nhất trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để áp dụng chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã khắc phục sự phân biệt đối xử trong ưu đãi đầu tư, tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, thúc đẩy đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài cùng phát triển, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế cao trong những năm vừa qua.

- Thứ hai, góp phần bảo đảm nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước
Mặc dù đã hạ mức thuế và áp dụng các mức ưu đãi cao nhưng số thu ngân sách nhà nước về thuế thu nhập doanh nghiệp vẫn bảo đảm tăng trưởng do có tác động cải thiện môi trường đầu tư, doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều phát triển về số lượng, quy mô và hiệu quả kinh doanh, mức thuế hợp lý cùng với thay đổi cơ chế quản lý thuế tác động đến việc các doanh nghiệp tự giác tuân thủ tốt hơn...
Trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2007, số thu thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thu từ dầu khí) đạt mức bình quân trên 30 ngàn tỷ đồng/năm với mức tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 16%. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã góp phần bảo đảm nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng về đầu tư phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng của đất nước.

- Thứ ba, thúc đẩy cải cách hành chính trong quản lý thuế và thực hiện ưu đãi đầu tư:
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng cơ chế doanh nghiệp tự tính, tự khai, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực của số liệu đã kê khai thay cho cơ chế cơ quan thuế tính thuế, thông báo thuế, quyết toán thuế. Việc ban hành và thực thi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã đánh dấu một bước tiến về cải cách thủ tục hành chính trong quản lý thuế và đầu tư khi đề cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc lựa chọn, xác định điều kiện và mức ưu đãi thuế mà không cần giấy phép, giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Nhờ việc chuyển sang cơ chế mới, cơ quan thuế có điều kiện tập trung nguồn lực vào công tác tuyên truyền, hỗ trợ, kiểm tra, giám sát để giúp cho doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của pháp luật.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, trong quá trình thực hiện và trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn tới, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã bộc lộ một số hạn chế, tồn tại như sau:

- Mức thuế suất 28% tuy phù hợp với tình hình thực tế khi ban hành nhưng đến nay chưa thực sự cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài do các nước trong khu vực đã có sự điều chỉnh giảm;

- Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp còn dàn trải, phức tạp, chưa phát huy hiệu quả phân bổ nguồn lực trong đầu tư để đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh tế theo vùng và lãnh thổ, nhất là thu hút đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;

- Căn cứ tính thuế (bao gồm thu nhập chịu thuế, chi phí được trừ và không được trừ) chưa thực sự minh bạch, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế;

- Một số nội dung của Luật đã được chuyển sang điều chỉnh tại các luật khác như Luật quản lý thuế, Luật thuế thu nhập cá nhân…

Vì vậy, để phát huy hơn nữa những ưu điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp, khắc phục những tồn tại nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn tới, cần thiết phải sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành. Do đó, ngày 03 tháng 8 năm 2008 tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi).
 
Ðề: Đề cương giới thiệu thuế TNDN.

II. MỤC TIÊU, YÊU CẦU
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ, bảo đảm môi trường thuận lợi, khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh”.

Chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 đã xác định: “hoàn thiện theo hướng giảm mức thuế suất, giảm diện miễn, giảm thuế; thống nhất mức thuế suất và ưu đãi thuế giữa các thành phần kinh tế để khuyến khích đầu tư và đảm bảo bình đẳng trong cạnh tranh.”

Quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, việc sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp lần này cần đáp ứng các mục tiêu, yêu cầu sau đây:

Một là, tiếp tục tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh; thực hiện giảm mức thuế suất chung để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích luỹ, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Hai là, cải cách ưu đãi thuế nhằm tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, khuyến khích và thu hút đầu tư có chọn lọc để phát triển các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và một số ít ngành, lĩnh vực quan trọng theo chính sách phát triển của Nhà nước trong giai đoạn sắp tới trên cơ sở thu hẹp diện ưu đãi theo ngành, lĩnh vực.

Ba là, việc sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp tuy có tác động giảm thu ngân sách nhà nước trong vài năm đầu nhưng phải đảm bảo ổn định và tăng trưởng nguồn thu ngân sách nhà nước trong trung và dài hạn.
 
Ðề: Đề cương giới thiệu thuế TNDN.

III. BỐ CỤC VÀ CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI CỦA LUẬT

1. Bố cục: Gồm 4 Chương, 20 Điều.

- Chương I. Những quy định chung gồm 05 điều (từ Điều 1 đến Điều 5);
- Chương II. Căn cứ và phương pháp tính thuế gồm 07 điều (từ Điều 6 đến Điều 12);
- Chương III. Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp gồm 06 điều (từ Điều 13 đến Điều 18);
- Chương IV. Điều khoản thi hành có 02 điều (Điều 19 và Điều 20).

2. Các nội dung chủ yếu, nội dung mới của Luật
2.1. Về phạm vi điều chỉnh của Luật

Ngày 21 tháng 11 năm 2007, Quốc hội đã thông qua Luật thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009, trong đó các cá nhân, hộ kinh doanh đang nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được chuyển sang nộp thuế theo Luật thuế thu nhập cá nhân. Luật quản lý thuế (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2007) đã quy định các nội dung về quản lý thuế bao gồm đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm thuế thu nhập doanh nghiệp. Vì vậy, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi chỉ quy định các nội dung về chính sách, đồng thời để thể hiện rõ nội dung mà Luật sẽ điều chỉnh, bảo đảm sự thống nhất về thể thức văn bản theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Phạm vi điều chỉnh của Luật quy định về người nộp thuế, thu nhập chịu thuế, thu nhập được miễn thuế, căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế và ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (Điều 1).

2.2. Về đối tượng nộp thuế (Người nộp thuế)
- Như đã đề cập ở phần trên, những đối tượng là cá nhân và hộ gia đình sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ sẽ chuyển sang nộp thuế theo Luật thuế thu nhập cá nhân kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Vì vậy, đối tượng nộp thuế theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ còn bao gồm tổ chức, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

- Các quy định về quyền đánh thuế của nước ta đối với các tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam hiện hành đang được quy định tại các văn bản dưới luật nay cũng được đưa vào quy định tại Luật để nâng cao cơ sở pháp lý trong thực hiện.

- Các thuật ngữ về “doanh nghiệp” và “cơ sở thường trú” hiện hành đang quy định tại Điều “Giải thích từ ngữ ”, nay Luật không quy định điều riêng về giải thích từ ngữ nên kế thừa nội dung và chuyển vào quy định về đối tượng nộp thuế để làm rõ hơn phạm vi quyền đánh thuế của Nhà nước Việt Nam.

2.3. Về thu nhập chịu thuế, thu nhập miễn thuế
Luật hiện hành quy định thu nhập chịu thuế phù hợp với thực tiễn tại thời điểm ban hành nhưng trước diễn biến thực tế của đời sống xã hội thì một số quy định không còn phù hợp, cần phải sửa đổi như sau:

- Về thu nhập chịu thuế (Điều 3): Trước đây, các doanh nghiệp được giao đất để kinh doanh nhà, cơ sở hạ tầng theo giá thấp nhưng giá bán nhà, cơ sở hạ tầng cùng với việc chuyển quyền sử dụng đất theo giá thị trường nên có lợi nhuận siêu ngạch. Để khắc phục hiện tượng này, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, Khoá IX của Đảng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành (Điều 7) có quy định những trường hợp chuyển quyền sử dụng đất ngoài việc nộp thuế 28% còn chịu thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo biểu thuế luỹ tiến từng phần tối đa không quá 30%.

Kể từ năm 2005, khi Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực, các trường hợp được giao đất để kinh doanh bất động sản phải thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án, nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước theo giá đất sát giá thị trường, đồng thời nghiêm cấm việc phân lô, bán nền, chuyển nhượng đất thô để xây nhà ở nên doanh nghiệp không còn lợi nhuận siêu ngạch từ chuyển quyền sử dụng đất. Mặt khác, hoạt động kinh doanh bất động sản bao gồm cả việc bán nhà, tài sản gắn với việc chuyển quyền sử dụng đất nên khó có thể xác định riêng thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất với thu nhập từ bán tài sản trên đất. Vì vậy, để phù hợp với thực tế, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi bỏ quy định thu bổ sung đối với chuyển quyền sử dụng đất mà áp dụng chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (bao gồm cả chuyển nhượng đất và tài sản trên đất) theo hướng: Kê khai riêng thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản để nộp thuế theo thuế suất chung (25%); nếu doanh nghiệp được hưởng ưu đãi đầu tư thì thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản không được ưu đãi thuế và nếu có lỗ thì chỉ được bù trừ với lãi từ hoạt động này trong 5 năm tiếp theo mà không được bù trừ với lãi từ các hoạt động kinh doanh khác.

Trong quá trình soạn thảo dự án Luật cũng có ý kiến cho rằng thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản là một trong các khoản thu nhập của doanh nghiệp nên cần được tính chung vào tổng thu nhập trong năm, được bù trừ với lỗ của các hoạt động khác (nếu có) và nếu doanh nghiệp được ưu đãi đầu tư thì cũng được ưu đãi miễn, giảm thuế đối với khoản thu nhập này. Quốc hội đã thảo luận vấn đề này và đã thông qua theo hướng: Thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản có phần do công sức của doanh nghiệp nhưng cũng có phần bởi lợi thế khách quan mang lại do Nhà nước điều chỉnh quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng; bên cạnh việc đấu giá quyền sử dụng đất vẫn còn những trường hợp giao đất, bán nhà gắn với chuyển quyền sử dụng đất theo phương thức chỉ định cá biệt chưa sát đúng với giá thị trường. Việc kê khai riêng thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản để thực hiện như trên sẽ bảo đảm được mục tiêu điều tiết đề ra, hạn chế được việc chuyển lãi từ chuyển nhượng bất động sản (trong đó có đất đai) sang bù lỗ cho các hoạt động kinh doanh khác và hưởng ưu đãi (nếu có) trong khi lĩnh vực kinh doanh này vẫn còn nhiều lợi thế.

- Về thu nhập miễn thuế (Điều 4): Luật hiện hành quy định thu nhập được miễn thuế tại nhiều điều khác nhau như: Điều 2 quy định miễn thuế đối với thu nhập từ hoạt động nông nghiệp của các hợp tác xã ; Điều 19 quy định miễn thuế đối với một số loại thu nhập từ thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ nông nghiệp… Ngoài ra, một số loại thu nhập của doanh nghiệp do tính chất, nguồn gốc hình thành và ý nghĩa đối với kinh tế xã hội cần được xem xét không thu thuế, như: thu nhập từ hoạt động góp cổ phần, liên doanh liên kết (đã nộp thuế tại đơn vị nhận vốn góp), khoản tài trợ nhận được của tổ chức có thu nhập không chia dùng cho hoạt động từ thiện, nhân đạo, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật, nghiên cứu khoa học và các hoạt động xã hội khác vì mục tiêu hoà bình, hữu nghị, phát triển kinh tế - xã hội; thu nhập do người sau cai nghiện làm ra.

Để phù hợp với thực tế nêu trên, bảo đảm rõ ràng, minh bạch và thể hiện được chính sách điều tiết đối với từng loại thu nhập, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi quy định rõ thu nhập chịu thuế, thu nhập được miễn thuế (không phải tính thuế) và thu nhập tính thuế trên cơ sở sắp xếp lại các Điều 2, Điều 7, Điều 19 của Luật hiện hành.

2.4. Về các khoản chi được trừ và các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế
Điều 9, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành quy định cả chi phí được trừ và chi phí không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Cách quy định này có thuận lợi là doanh nghiệp biết các khoản chi phí để tự đối chiếu, kê khai; nhưng có bất lợi là trong thực tiễn nền kinh tế đang vận động theo cơ chế thị trường, hoạt động của doanh nghiệp theo xu hướng đa ngành, đa lĩnh vực, ngày càng phát sinh nhiều khoản chi mới không thuộc danh mục chi phí được trừ nhưng cũng không thuộc chi phí không được trừ theo quy định, dẫn đến việc hiểu và vận dụng khác nhau giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước (kiểm toán, thuế, thanh tra).
Để khắc phục hạn chế này, bảo đảm rõ ràng, minh bạch, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động trong hạch toán kinh doanh, thực hiện tốt cơ chế tự khai, tự nộp, tự xác định nghĩa vụ thuế theo quy định của Luật quản lý thuế một cách có hiệu quả, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi kỹ thuật lập pháp theo hướng: quy định điều kiện xác định khoản chi được trừ và liệt kê cụ thể các khoản chi không được trừ. Theo cách này, những khoản chi còn lại không kê trong Luật thì đương nhiên doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế.

Cụ thể một số vấn đề sửa đổi như sau:

- Chi trả lãi tiền vay: Luật hiện hành quy định được tính vào chi phí hợp lý “tối đa không quá 1,2 lần mức lãi suất cho vay của Ngân hàng thương mại tại thời điểm vay”. Luật sửa đổi quy định không được tính vào chi phí hợp lý phần “vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm vay”.

- Về tỷ lệ giới hạn tối đa 10% đối với chi phí quảng cáo, khuyến mại, tiếp thị, tiếp khách, môi giới trong chi phí được trừ khi xác định thu nhập tính thuế: Luật hiện hành quy định tỷ lệ giới hạn 10% đối với các khoản chi này nhằm bảo vệ các doanh nghiệp Việt Nam (quy mô chủ yếu là nhỏ và vừa) trong cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia, đồng thời hạn chế việc lợi dụng chi không đúng mục đích. Tới đây nước ta phải mở cửa thị trường nhiều hơn trong khi hệ thống pháp luật về chống độc quyền, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh còn đang tiếp tục hoàn thiện, đa số doanh nghiệp vẫn còn yếu thế trên thương trường nên việc tiếp tục giữ giới hạn đối với các khoản chi này là cần thiết.

Những doanh nghiệp mới được thành lập được áp dụng tỷ lệ giới hạn, đối với chi phí quảng cáo, khuyến mại, tiếp khách, môi giới trong chi phí được trừ khi xác định thu nhập tính thuế là 15% trong 3 năm đầu kể từ khi doanh nghiệp được thành lập. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thành lập mới được thuận lợi hơn khi gia nhập thị trường trong và ngoài nước.

- Tất cả các doanh nghiệp được trừ khoản tài trợ, trừ khoản tài trợ cho giáo dục, y tế, khắc phục hậu quả thiên tai và làm nhà tình nghĩa cho người nghèo theo quy định của pháp luật khi xác định thu nhập chịu thuế. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội cùng Nhà nước giải quyết những vấn đề lớn của xã hội.
 
Ðề: Đề cương giới thiệu thuế TNDN.

2.5. Về nơi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành quy định doanh nghiệp kê khai, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi đóng trụ sở chính đã tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong hạch toán tập trung, điều hành nhưng trong thực tế phát sinh điểm bất cập là: các doanh nghiệp có thể làm thay đổi cân đối nguồn thu giữa các địa phương khi thay đổi địa điểm đặt trụ sở chính.

Xu thế hiện nay và những năm tới khi kinh tế thị trường càng phát triển thì doanh nghiệp thường sẽ chọn đặt trụ sở chính tại thành phố lớn, hoặc những nơi trung tâm để có điều kiện thuận lợi hơn trong giao dịch; trong khi đó các nhà máy, cơ sở sản xuất của doanh nghiệp được đặt tại địa bàn các tỉnh khác. Tại những nơi này, chính quyền địa phương phải cung cấp nhiều dịch vụ phục vụ cho sản xuất - kinh doanh như: bệnh viện, trường học, nhà ở công nhân, vệ sinh môi trường, trật tự trị an, nhưng không có nguồn thu vì thuế thu nhập doanh nghiệp được nộp tại nơi đóng trụ sở chính. Để khắc phục những bất cập nêu trên, đảm bảo sự hài hoà mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp với các địa phương nơi doanh nghiệp mở các nhà máy, cơ sở sản xuất hoặc thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi quy định về nơi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng kết hợp giữa nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính và nơi thực hiện sản xuất kinh doanh trên nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi nhất, không làm tăng thêm chi phí của doanh nghiệp, không gây phức tạp về thủ tục hành chính trong kê khai, quyết toán thuế. Việc nộp thuế chủ yếu được thực hiện tập trung tại địa phương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính, doanh nghiệp chỉ nộp 01 (một) tờ khai quyết toán thuế như hiện hành nhưng có bảng phân bổ số thuế giữa các địa phương theo tiêu thức phân bổ phù hợp với từng loại hình kinh doanh. Đây là nội dung mới, hướng dẫn tiêu chí phân bổ phức tạp, do đó trong Luật chỉ quy định mang tính nguyên tắc và đề nghị giao cho Chính phủ hướng dẫn cụ thể, phù hợp với đặc thù của từng ngành nghề, lĩnh vực.

2.6. Về thuế suất và ưu đãi thuế
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 quy định thuế suất chung là 28%. Để khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, Luật quy định ba (03) mức thuế suất ưu đãi là 10%, 15% và 20% áp dụng trong thời gian tương ứng là 15 năm, 12 năm và 10 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh; thời gian miễn thuế tối đa là 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế, giảm 50% số thuế phải nộp tối đa trong 9 năm tiếp theo tuỳ thuộc vào nhiều tiêu chí ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn ưu đãi theo quy định của pháp luật về đầu tư. Ngoài ra, Luật còn quy định miễn thuế, giảm thuế đối với dự án đầu tư mở rộng sản xuất và một số trường hợp để tham gia thực hiện chính sách kinh tế - xã hội khác như khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ, sử dụng lao động là đối tượng xã hội.

Về thuế suất: Khi ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (2003), để bảo đảm tính cạnh tranh trong thu hút đầu tư, Quốc hội đã cân nhắc rất kỹ để quy định mức thuế suất 28%, thấp hơn so với các nước trong khu vực có điều kiện về cơ sở hạ tầng tốt hơn ta như: Ma-lai-xi-a (32%), Thái Lan (30%), Phi-lip-pin (35%) In-đô-nê-xi-a (30%, riêng thuế suất đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực khai thác mỏ, dầu khí, thuỷ điện từ 30% đến 45%) và Trung Quốc (33%).

Do tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các quốc gia ngày càng gay gắt hơn, các nước trên thế giới và trong khu vực đều chú trọng thực hiện các biện pháp cải thiện môi trường đầu tư, trong đó thuế thu nhập doanh nghiệp là một trong những công cụ, giải pháp chính. Xu hướng quốc tế gần đây cho thấy nhiều nước chuyển từ ưu đãi nhiều ngành, lĩnh vực sang ưu đãi theo diện rộng, khuyến khích tổng thể nền kinh tế bằng chính sách điều tiết thuế thu nhập doanh nghiệp hợp lý (hạ thuế suất), chỉ tập trung ưu đãi để phát triển một số rất ít ngành mũi nhọn và vùng đặc biệt khó khăn. Ví dụ: Trung Quốc cùng với việc hạ thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 33% xuống 25% đã xoá bỏ hầu hết các ưu đãi thuế theo lộ trình 5 năm, kể cả ưu đãi trước đây đã cấp cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Đối với lĩnh vực, Trung Quốc chỉ còn ưu tiên cho một số ít lĩnh vực như: công nghệ cao đồng thời là công nghệ mới, bảo vệ môi trường sinh thái; đối với địa bàn chỉ có ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đầu tư vào các vùng tự trị, vùng khó khăn ở phía Tây; Ma-lai-xi-a đã giảm từ 32% xuống 28%; Phi-lip-pin giảm từ 35% xuống 30%.

Vì vậy để khuyến khích tổng thể nền kinh tế, tạo thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp có điều kiện tăng tích luỹ, tích tụ, thêm nguồn lực để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, Luật sửa đổi hạ mức thuế suất chung từ 28% xuống 25% đồng thời với việc cải cách ưu đãi thuế.

Về ưu đãi thuế: Để thống nhất về chính sách, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, các quy định về ưu đãi thuế hiện hành được tổng hợp và kế thừa từ tất cả các văn bản pháp luật ban hành từ lúc nền kinh tế nước ta mới mở cửa, môi trường đầu tư còn kém hấp dẫn, cơ sở hạ tầng còn khó khăn, trên nguyên tắc chọn mức ưu đãi cao nhất, thuận lợi nhất.

Các ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp như nêu trên đã phát huy tác dụng tích cực góp phần cải thiện môi trường đầu tư trong những năm đầu mới ban hành nhưng trước thực tế phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và những năm tới thì chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ngày càng bộc lộ nhược điểm dàn trải, phức tạp; chưa đáp ứng được yêu cầu là công cụ phân bổ nguồn lực để phát triển kinh tế theo vùng và lãnh thổ, nhất là các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Do ưu đãi dàn trải vừa theo ngành nghề, lĩnh vực, vừa theo địa bàn nên các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, đều tập trung chủ yếu vào các Khu công nghiệp, Khu chế xuất hoặc những địa bàn thuận lợi tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh.

Nhằm khắc phục những nhược điểm nêu trên, bảo đảm chính sách ưu đãi thuế phát huy tác dụng là công cụ tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, thu hút đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và một số ngành, lĩnh vực quan trọng theo chính sách phát triển của Nhà nước trong giai đoạn sắp tới, Luật sửa đổi đã cải cách ưu đãi thuế theo nguyên tắc giữ mức ưu đãi thuế cao nhất để không ảnh hưởng đến môi trường đầu tư nhưng cần có khoảng cách chênh lệch đủ lớn so với mức ưu đãi thấp hơn; thu hẹp diện ưu đãi theo lĩnh vực để tạo sức hấp dẫn của mức ưu đãi cao theo địa bàn, cụ thể như sau:

- Áp dụng mức ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế suất 10% trong 15 năm và miễn thuế tối đa trong 4 năm, giảm 50% số thuế tối đa trong 9 năm tiếp theo) đối với các doanh nghiệp mới thành lập, hoạt động tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; doanh nghiệp mới thành lập, hoạt động trong các lĩnh vực mũi nhọn gồm: công nghệ cao, nghiên cứu và phát triển, các lĩnh vực đang được khuyến khích đẩy mạnh xã hội hoá (giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá - nghệ thuật, thể thao) và bảo vệ môi trường. Đối với các trường hợp đặc biệt thì có thể được hưởng thuế suất 10% trong thời gian dài hơn theo quy định của Chính phủ.

- Áp dụng mức thuế suất 20% trong thời gian 10 năm, miễn thuế tối đa 2 năm và giảm 50% tối đa 4 năm tiếp theo đối với doanh nghiệp mới thành lập, hoạt động tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn như hiện hành. Đồng thời bỏ mức thuế suất 15% là mức thuế suất hiện hành chủ yếu áp dụng đối với dự án thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, dự án sản xuất trong các khu công nghiệp để vừa đơn giản, vừa tạo sức hấp dẫn của các mức ưu đãi 10% và 20% như nêu trên.

- Các trường hợp đầu tư mở rộng, đầu tư theo chiều sâu sẽ được trích khấu hao nhanh hơn so với mức thông thường thay thế cho việc giảm thuế hiện nay để bảo đảm tính khả thi và minh bạch.

- Thời gian áp dụng miễn thuế, giảm thuế tính từ năm đầu tiên có doanh thu thay thế cho quy định hiện hành (tính từ khi có thu nhập chịu thuế) nhằm hạn chế khả năng lợi dụng chính sách ưu đãi để chuyển thu nhập về công ty mẹ, chuyển lãi ra nước ngoài thông qua giá.

- Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi còn quy định ưu đãi mới cho tất cả các doanh nghiệp được trích tối đa 10% thu nhập trước khi tính thuế hàng năm để lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ nhằm tạo thuận lợi, khuyến khích doanh nghiệp chủ động đầu tư phát triển, ứng dụng công nghệ mới, đổi mới thiết bị. Về nội dung này Điều 45 của Luật chuyển giao công nghệ quy định: “Doanh nghiệp được trích một phần lợi nhuận trước thuế hằng năm lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ để tiến hành hoạt động nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ. Trong thời hạn năm năm, nếu quỹ không được sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích thì doanh nghiệp phải nộp vào ngân sách nhà nước phần thuế thu nhập doanh nghiệp trên số lợi nhuận trước thuế mà Nhà nước để lại cho doanh nghiệp và phần lãi phát sinh từ khoản lợi nhuận trước thuế đó” và “Chính phủ trình Quốc hội quyết định mức khấu trừ lợi nhuận trước thuế quy định tại Điều này”.

Xét về mặt tổng thể, việc thiết kế thuế suất và các ưu đãi thuế nêu trên đảm bảo duy trì được chính sách ưu đãi hiện hành (thậm chí còn ưu đãi cao hơn), tạo được động lực khuyến khích mới cho toàn bộ nền kinh tế như Chương trình cải cách thuế đến năm 2010 đã được Bộ Chính trị cho ý kiến và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách ưu đãi này khắc phục được các hạn chế, tồn tại của chính sách hiện hành về tình trạng dàn trải, phức tạp và hạn chế trong việc ưu tiên phân bổ nguồn lực cho vùng đặc biệt khó khăn. Đồng thời, hệ thống ưu đãi này bảo đảm cải thiện được môi trường đầu tư, kinh doanh của nước ta phù hợp với xu thế của các nước trên thế giới và trong khu vực, nâng cao tính cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp và nền kinh tế.

Việc điều chỉnh giảm thuế suất từ 28% xuống 25%, sắp xếp lại ưu đãi thuế, lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ như báo cáo trên đây ảnh hưởng làm giảm thu ngân sách khoảng 5.000 tỷ mỗi năm (khoảng 13% so với số thu thuế thu nhập doanh nghiệp không kể thu từ dầu khí của năm 2007). Trước mắt, tuy có giảm thu nhưng những thay đổi về ưu đãi thuế như bỏ thuế suất 15%, thu hẹp ưu đãi theo lĩnh vực, cách tính miễn thuế kể từ khi có doanh thu làm tăng thu khoảng 2.000 tỷ đồng/năm. Như vậy, việc sửa đổi Luật có làm giảm thu ngân sách nhà nước những năm trước mắt, nhưng với chính sách ưu đãi đồng bộ, môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi hơn, tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh sẽ tạo nên sự tăng trưởng nguồn thu một cách bền vững, ổn định trong tương lai. Ngoài ra, việc sửa đổi lần này còn bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch trong xác định chi phí được trừ, thu nhập chịu thuế, ưu đãi thuế cũng sẽ khuyến khích doanh nghiệp nâng cao tính tự giác trong kê khai nộp thuế, thuận lợi trong việc kiểm tra thuế, trên cơ sở đó góp phần hạn chế thất thu ngân sách.
Nội dung sửa đổi về thuế suất và ưu đãi thuế được quy định cụ thể trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi tại các Điều 13, 14, 15, 16 và 17.
 
Ðề: Đề cương giới thiệu thuế TNDN.

2.7. Về điều kiện ưu đãi thuế
Điều 21 Luật hiện hành vừa quy định về thủ tục, vừa quy định về điều kiện để hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Luật quản lý thuế đã bãi bỏ các quy định về quản lý thuế trong các luật thuế, do đó Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi chỉ quy định về điều kiện để hưởng ưu đãi theo hướng kế thừa quy định hiện hành. Nội dung này được thể hiện tại Điều 18 của Luật, cụ thể:

“Điều 18. Điều kiện áp dụng ưu đãi thuế
1. Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp quy định tại các điều 13, 14, 15, 16 và 17 của Luật này chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ và nộp thuế theo kê khai.

2. Doanh nghiệp phải hạch toán riêng thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh được ưu đãi thuế quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật này với thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh không được ưu đãi thuế; trường hợp không hạch toán riêng được thì thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh được ưu đãi thuế được xác định theo tỷ lệ doanh thu giữa hoạt động sản xuất, kinh doanh được ưu đãi thuế trên tổng doanh thu của doanh nghiệp.

3. Việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật này không áp dụng đối với:
a) Thu nhập quy định tại khoản 2 Điều 3 của Luật này;
b) Thu nhập từ hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và tài nguyên quí hiếm khác;
c) Thu nhập từ kinh doanh trò chơi có thưởng, cá cược theo quy định của pháp luật;
d) Trường hợp khác theo quy định của Chính phủ.”

4. Về hiệu lực thi hành và xử lý đối với các trường hợp đang được hưởng ưu đãi theo Luật hiện hành
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009.
Về xử lý đối với các trường hợp đang được hưởng ưu đãi theo Luật hiện hành: Luật quy định doanh nghiệp đang hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo các quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành thì tiếp tục được hưởng ưu đãi trong thời gian còn lại. Trường hợp được miễn thuế, giảm thuế nhưng chưa có thu nhập chịu thuế thì thời điểm tính miễn, giảm thuế được xác định kể từ khi Luật sửa đổi có hiệu lực thi hành. Trường hợp mức ưu đãi theo quy định của Luật hiện hành mà thấp hơn quy định của Luật sửa đổi thì được hưởng ưu đãi theo Luật sửa đổi cho thời gian còn lại.
 
Ðề: Đề cương giới thiệu thuế TNDN.

III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Để đảm bảo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009, một số công việc cần được triển khai như sau:
Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.

CẨM NANG KẾ TOÁN TRƯỞNG


Liên hệ: 090.6969.247

KÊNH YOUTUBE DKT

Kỹ thuật giải trình thanh tra BHXH

Đăng ký kênh nhé cả nhà

SÁCH QUYẾT TOÁN THUẾ


Liên hệ: 090.6969.247

Top